Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung
và cầu. Trên thị trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của
cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu hướng giảm, kì vọng giá giảm
và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá tăng
và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu
tăng giá sẽ tăng còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt
mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.
Xác lập giá
Có 2 phương pháp để biểu diễn mức giá dọc theo trục y (trục tung)
là: arithmetic (số học) và logarithmic (thuộc hàm log). Cách arithmetic
biểu diễn 10 điểm cách đều nhau trên đường chéo cho dù mức giá có khác
nhau. Mỗi đơn vị đo đều như nhau. Nếu giá cổ phần tăng từ 10 lên 80
sau 6 tháng thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển từ 10 lên 20 và sự dịch
chuyển này cũng tương đương với sự dịch chuyển từ 70 lên 80. Tuy nhiên
sự chuyển dịch trên không tương đương về phần trăm.
Cách logarithmic đo sự tăng giảm của giá cả theo phần trăm. Tăng từ
10 lên 20 nghĩa là tăng 100%. Cũng thế với bước tăng từ 20 lên 40 và từ
40 lên 80. Cả 3 sự dịch chuyển trên có khoảng cách trên đường chéo như
nhau . Hầu hết các chương trình về biểu đồ cho rằng dạng logarithmic
là dạng semi-log, vì trục thời gian vẫn được biểu diễn theo kiểu số
học.

Biểu đồ trên minh họa cho sự khác nhau của 2 dạng. Ở dạng semi-log,
khoảng cách giữa 50 và 100 cũng bằng khoảng cách giữa 100 và 200. Còn
đối với dạng arithmetic thì khoảng cách giữa 100 và 200 lớn hơn nhiều
so với 50 và 100.
Ưu điểm của 2 dạng biểu diễn trên:
-Dạng arithmetic hữu ích khi biên độ giá tương đối hẹp.
- Dạng arithmetic hữu ích để biểu diễn những biểu đồ và những giao
dịch trong thời gian ngắn. Sự chuyển dịch giá(đặc biệt là giá cổ phần)
được biểu diễn tuyệt đối và phản ánh sư chyển dịch của dollar với
dollar.
-Dạng semi-log hữu ích khi giá cả tăng giảm mạnh, vượt hoặc mở rộng khung thời gian.
-Các đường biểu diễn không quá chênh lệch trong dạng semi-log.
-Dạng semi-log hợp cho những biểu đồ có thời gian dài để dự đoán mức
tăng phần trăm sau 1 khoảng thời gian dài. Những dịch chuyển lớn trở
nên cân đối hơn.
-Cổ phần và tài sản thế chấp được đánh giá tương đối qua việc dùng
các tỷ lệ như PE, giá/thu nhập, giá/sổ thu chi. Điều này cũng giúp phân
tích sự chuyển dịch giá theo phần trăm 1 cách hợp lý.
Kết luận
Cho dù có nhiều kỹ thuật khác nhau về biểu đồ thì không hẳn một
phương pháp sẽ tốt hơn phương pháp khác. Dữ liệu có thể giống nhau
nhưng mỗi phương pháp có cách trình bày riêng với những ưu và khuyết
điểm khác nhau. Mức giá của tài sản thế chấp đươc trình bày thế nào,
biểu đồ thanh hay biểu đồ candlestick, biểu diễn dạng arithmetic hay
semi-log không phải là yếu tố quan trọng nhất. Và cuối cùng, dữ liệu
thì luôn giống nhau và sự biến động giá vẫn là sự biến động giá. Khi
tất cả được nói và làm, kỹ năng phân tích sự biến động giá là yếu tố
phân loại nhà đánh giá có thành công hay không. Lựa chọn sử dụng biểu
đồ nào còn phụ thuộc vào sở thích cá nhân và cách giao dịch hay đầu tư
riêng của mỗi người. Môt khi bạn đã chọn được dạng biểu đồ thì nên kèm
theo đó nhũng dự đoán và học cách tốt nhất để dự đoán. Đổi đi đổi lại
có thể gây ra xáo trộn và không làm rõ đượctrọng tâm của bài phân tích.
Lỗi phân tích hiếm khi gây ra bởi biểu đồ. Do đó nên xem lại bài phân
tích trước khi đổ lỗi cho biểu đồ.
Chìa khóa để phân tích biểu đồ là quyết tâm, đặt trọng tâm và sự thống nhất:
-Quyết tâm: Học những điều cơ bản về phân tích biểu đồ, ứng dụng kiến thức đã học thường xuyên.
-Trọng tâm: Giới hạn số lượng biểu đồ, dấu hiệu và
cách thức thực hiện của bạn. Học cách sư dụng chúng và cách sử dụng
chúng cho thật tốt.
-Sự thống nhất: Duy trì những dạng biểu đồ bạn dùng và nghiên cứu chúng thường xuyên(nghiên cứu mỗi ngày nếu có thể).
Support and Resistance
Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung
và cầu. Trên thị trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm
của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu hướng giảm, kì vọng giá
giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá
tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu
cầu tăng giá sẽ tăng còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu
đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.
Support là gì?
Support là mức giá mà tại đó người ta cho rằng nhu cầu đủ nhiều để
mức giá không giảm mạnh. Khi giá giảm đến mức support hoặc rẻ hơn nữa
thì người mua sẽ có khuynh hướng mua tiếp và ngược lại người bán sẽ
không bán. Trước khi giá giảm tới mức support, hiện tuợng cầu vượt quá
cung xuất hiện và hiện tuợng này sẽ ngăn giá giảm xuống dưới mức
support.

Support không phải luôn ở mức ổn định và việc mức support giảmbáo
hiệu cung vượt quá cầu. Khi đó người ta có xu hướng bán nhiều hơn mua.
Mức support bị phá vỡ và mức support mới thấp hơn dự báo người bán đang
mất hy vọng và họ sẵn sàng bán với giá thấp. Thêm vào đó, người mua sẽ
không mua cho đến khi giá giảm dưới support hoặc giảm so với mức trước
đó. Khi mức support bị phá vỡ, 1 mức support khác thấp hơn sẽ được
thiết lập.
Mức support được thiết lập căn cứ vào đâu?
Mức support thường thấp hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường sẽ
an toàn nếu giao dịch gần mức support hoặc tại mức support. Kỹ năng
phân tích không phải là ngành nghiên cứu chính xác và đôi khi rất khó
xác định mức support chính xác. Hơn nữa, sự chuyển dịch giá có thể đột
biến và tụt xuống dưới mức support 1 cách đột ngột. Đôi khi không hợp
lý khi cho rằng mức support bị phá vỡ nếu giá giảm gần 1/8 so với mức
support. Vì lý do này nhiều nhà giao dịch và đầu tư đã tạo ra vùng
support.
Resistance là gì?
Resistance là mức giá mà tại đó người ta cho rằng việc bán ra đủ
nhiều để giữ giá không tăng mạnh. Khi giá tăng đến mức resistance thì
người bán có khuynh hướng tiếp tục bán và người mua thường dừng lại.
Trước khi gía chạm tới mức resistance thì cung sẽ vượt quá cầu ,ngăn
giá tăng trên mức resistance.

Resistance thường không giữ nguyên và mức resistance bị phá vỡ dự
báo cầu vượt quá cung. Việc mức resistance bị phá vỡ cho thấy người ta
mua nhiều hơn bán. Mức resistance bị phá vỡ và mức resistance mới cao
hơn cho thấy người mua sẵn sàng mua ngay cả với giá cao. Hơn nữa, người
bán sẽ không bán cho đến khi giá tăng trên mức resistance hoặc tăng
hơn trước đó. Khi mức resistance bị phá vỡ thì 1 mức resistance mới cao
hơn sẽ được thiết lập.
Mức resistance được thiết lập căn cứ vào đâu?
Mức resistance thường cao hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường
giao dịch tại mức resistance hoặc gần mức này là an toàn. Thêm vào đó,
sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tăng trên mức resistance 1 cách
đột ngột. Đôi khi thật bất hợp lý khi cho rằng mức resistance bị phá vỡ
nếu giá tăng gần 1/8 so với mức resistance được thiết lập. Vì vậy
nhiều nhà giao dịch và đầu tư thường lập nên vùng resistance.
Phương pháp nào để thiết lập support và resistance?
Support và resistance giống như những hình ảnh phản chiếu trong gương và có nhiều điểm chung.
Mức cao và mức thấp:
Support có thể được thiết lập dựa vào mức thấp trước đó và tương tự, resistance có thể được tạo bởi mức cao trước đó.

Biểu đồ trên biểu diễn phạm vi giao dịch rộng từ tháng 1-99 đến
tháng 3-2000. Support được tạo nên bởi mức thấp tháng 10 gần mức 33.
vào tháng 12, giá cổ phần quay lại mức support vào khoảng 33-35 và mức
thấp là gần 34. Cuối cùng vào tháng 2 giá cổ phần 1 lần nữa quay lại
mức support và mức thấp là gần 33 1/2.
Sau mỗi lần mức support dội lên, giá giao dịch cổ phần lại tăng lên
mức resistance. Mức resistance ban đầu được tạo nên từ mức support là
42. 5 đã bị phá vỡ ở tháng 9. Sau khi mức support bị phá vỡ thì nó trở
thành mức resistance. Từ mức thấp của tháng 10, giá cổ phần tăng đến
mức resistance mới(mà trước đó là mức support)khoảng gần 42.5. Khi giá
cổ phần không vượt qua 42.5 thì lúc đó mưc resistance được xác định.
Giá cổ phần sau đó tăng đến mức 42. 5 2 lần nữa rồi lại giảm dưới mức
resistance 2 lần.
Support = Resistance
Một điều cơ bản của kỹ năng phân tích là mức support có thể chuyển
thành mức resistance. Khi giá giảm dưới mức support thì mức support ấy
có thể trở thành mức resistance. Mức support bị phá vỡ báo hiệu cung
vượt qua cầu. Do đó, nếu giá quay trở lại mức này thì cung có thể sẽ
tăng.
Ngược lại mức resistance cũng có thể sẽ chuyển thành mức support.
Khi giá vượt qua mức resistance, có thể sẽ xuất hiện sự thay đổi của
cung và cầu. Việc mức resistance bị phá vỡ chứng tỏ cầu đã vượt quá
cung. Nếy giá quay trở lại mức này, có thể cầu sẽ tăng và mức support
có thể được xác định.

Trong biểu đồ trên, giá cổ phần phá vỡ mức resistance là 935 ở tháng
5-97 và vượt trên mức resistance trong hơn 1 tháng sau. Sau lần thứ 2
mức support là 935, mức giá này được thiết lập.
Trong ví dụ này, ta thấy mức support có thể trở thành mức resistance
và sau đó lại trở lại thành mức support. Mức support là 18 từ tháng
10-98 đến tháng 1-99(vòng oval xanh lá cây), nhưng giá giảm dưới mức
support vào tháng 3-99 do cung đã vượt quá cầu. Khi giá cổ phần bị dội
xuống (vòng oval màu đỏ), mức cung cao nhất chạm đến mức resistance 18
trong khoảng từ tháng 1-99 đến tháng 10-99.
Do đâu có mức cung cao như thế? Dễ thấy nhu cầu tăng cao trên dưới
18 trong khoảng tháng 10-98 đến tháng 3-99 (vòng oval xanh lá cây) . Do
đó sẽ có nhiều người mua gần mức 18. Khi giá giảm dưới 18 và gần mức
14, nhiều người mua này sẽ giữ lại cổ phần. Điều này giữ cho mức cung
cao(thông thường được xem là mức resistance) ở mức gần 18. Khi giá cổ
phần quay lại 18, người mua trong mức oval xanh lá cây ( mua trong mức
18 ) sẽ nắm lấy cơ hội để bán. Và khi cung đã yếu dần, cầu có khả năng
vượt cung để giữ mức resistance tại 18.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét