Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
Như cái tên của nó, đây là những mô hình đổi chiều cho thấy dấu hiệu
xu hướng đã kết thúc và thị trường đã sẵn sàng đổi sang 1 xu hướng khác
ngược với hướng ban đầu, hoặc có thể, dao động ngắn ( sideways) trong 1
thời gian.
Cùng với mô hình tiếp diễn, đường xu hướng (trendline) là mô hình cơ
bản để xem xét. Nếu giá phá vỡ đường xu hướng, và tiếp tục bứt phá,
đây là sự xác nhận của 1 sự đổi chiều xu hướng. Luôn nhớ rằng, tất cả
các mô hình đều có thể áp dụng cho mọi khung thời gian (time frames) –
theo giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc có thể theo biểu đồ phút.
Mô hình 2 đỉnh – (double tops): Hiện tượng này xuất
hiện khi giá đạt đến một điểm cao rõ rệt, vượt hẳn điểm trước đây, sau
đó quay lại điểm đó và lại vượt lên. Khi thời gian 2 đỉnh liên tiếp
của sự tăng giá này cách nhau càng lâu thì càng thể hiện khả năng tăng
giá của đồ thị này. Sự biến đổi của mô hình này tương tự như hiện tượng
mà người ta gọi là mô hình các đỉnh “M” hay 1-2-3 đợt sóng tăng giá.
Tuy nhiên, sự tăng giá thứ 2 thường thấp hơn sự tăng giá đầu tiên đối
với mô hình này. Trong hầu hết các trường hợp, những điểm quyết định
thường là những điểm tăng giá, đó là những điểm đánh dấu khả năng xuất
hiện một mức giá trần mong đợi, và một mức giá thấp tạm thời. Nếu giá
giảm xuống thấp hơn mức đó, đó là sự xác nhận đỉnh mô hình và dấu hiệu
khuyên bạn nên bán.
Mô hình 2 đáy (double bottom) : nguyên tắc của mô
hình này giống như sự ngược lại của mô hình 2 đỉnh. Tương tự mô hình
này được gọi là mô hình các đáy “W” hoặc 1-2-3 đợt sóng giảm giá. Trong
tất cả các trường hợp của mô hình này, giá đạt đến một mức thấp rõ
rệt, có sự bật lên 1 chút, sau đó rớt xuống mức thấp để thử lại 1 lần
nữa, và cuối cùng tăng trở lại. Khi giá vượt khỏi mức cao tạm thời, khi
đó đáy mô hình được xác nhận và thị trường nên bán.
Mô hình đảo ngược các đỉnh “đầu và vai” (Head-and-shoulders top reversal) : Mô
hình đảo ngược khuynh hướng truyền thống này xuất hiện khi thị trường
tạo ra một điểm cao mới (left shoulder), giảm xuống, tăng lên đến đỉnh
mới cao hơn (head) và giảm trở lại, sau đó tăng tới 1 đỉnh cao mới sau 1
thời gian có thể là bằng với đỉnh bên trái (left shoulder) và sau đó
thì giảm trở lại. Điểm mấu chốt ở đây là “1 đường tiệm cận” – “neckline”
hoặc là 1 đường nằm ngang mà có thể nối 2 điểm thấp trên đồ thị.

Khi giá rớt xuống thấp hơn “neckline”, đó là dấu hiệu kết thúc sự
tăng giá và có khả năng bắt đầu 1 đợt giảm giá của thị trường. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp giá có khuynh hướng đi ngược với xu hướng
thị trường vì vậy sự dừng lại chưa tạo ra một xu hướng giảm giá ngay.
Đôi khi điểm dừng lại của đường tiệm cận xuất hiện như 1 sự gián đoạn
hoặc báo hiệu 1 xu hướng giảm giá mạnh, ủng hộ cho sự đảo ngược về giá.
Mô hình ” đầu và vai” là một trong nhiều loại mô hình đồ thị khác
nhau mà được sử dụng để hoạch định cho chiến lược về giá. Các nhà phân
tích đo lường khoảng cách từ đỉnh “head” đến đường tiệm cận của đồ thị
sau đó trừ đi khoảng cách từ điểm ngừng của đường tiệm cận để tính toán
xem giá có thể giảm đến mức nào.
Mô hình đảo ngược các đáy “đầu và vai” (Head-and-shoulders bottom reversal) :
Có thể nói mô hình 2 đáy là nghịch đảo của mô hình 2 đỉnh, các đáy
“vai và đầu” thì cũng giống các đỉnh “vai và đầu” nhưng ngược lại. Điều
này có nghĩa là giá trượt xuống 1 mức thấp (left shoulder), tăng trở
lại sau 1 thời gian, sau đó giảm xuống đến 1 mức thấp hơn (head), lại
tăng trở lại và sau cùng là hạ xuống lần nữa đến 1 mức thấp xấp xỉ với
mức “left shoulder” (right shoulder).

Đường tiệm cận của đồ thị rất quan trọng. Khi giá vượt khỏi đường
tiệm cận này, mô hình đảo ngược kết thúc và 1 xu hướng tăng tiềm năng
có thể xuất hiện. Cùng với các đỉnh ” vai và đầu”, có thể có 1 vài giao
dịch về phía sau và phía trước theo cả 2 phía của đường tiệm cận khi
thị trường quyết định chọn hướng đi, và khoảng cách giữa đường tiệm cận
và đỉnh “head” có thể được sử dụng để dự đoán xem giá có thể biến động
như thế nào.
Mô hình “sụt giá theo 1 mũi nhọn” (Falling wedge) :
Mô hình này xuất hiện khi thị trường đang trong xu hướng đồng loạt
giảm giá và các loại giá cao giảm nhanh hơn các loại thấp, giống như
dạng mũi nhọn. Người bán có thể đẩy giá đến mức thấp hơn nhưng do có 1
lượng mua hỗ trợ để giữ thị trường không bị giảm giá thấp hơn. Cuối cùng
sức mạnh của bên bán bắt đầu cạn dần và không thể khiến giá thị trường
giảm thấp hơn nữa, và thị trường bắt đầu bật dậy khi thế lực của bên
bán vượt hẳn bên mua. Những mô hình như thế này thường có hướng tăng
giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh hướng thị trường.
Mô hình “tăng giá theo 1 mũi nhọn” (Rising wedge) :
Mô hình này ngược lại với mô hình trên và xuất hiện khi thị trường ở
xu hướng tăng giá. Người mua tiếp tục đẩy đẩy các loại giá thấp trong
ngày lên, nhưng người mua đã giữ cho giá thị trường không lên quá cao.
Sau cùng việc mua đã giảm và người bán nắm thị trường, và đẩy giá xuống
thấp hơn mũi nhọn tạm thời của xu hướng tăng giá. Những mô hình như thế
này thường có hướng giảm giá và là điềm báo có 1 sự thay đổi khuynh
hướng thị trường.
