Những lo ngại về tính đúng đắn của Liên minh châu Âu
(EU) và đồng tiền chung euro đã không ít lần khuấy động mọi thị trường
tài chính từ lớn tới nhỏ trong hơn một năm qua. Khủng hoảng tiền tệ châu
Âu cho đến nay đã mang đến một quy mô khổng lồ cho thị trường ngoại hối
cùng khả năng thay đổi nhanh chóng và đáng kể trong chỉ đạo, sức mạnh
và động lực kinh doanh.
Và như câu nói thường trực trên thị
trường: "Không có gì có thể nâng giá đồng USD mạnh bằng khủng hoảng toàn
cầu." Điều đó chắc chắn đúng trong thời gian gần đây. Chỉ tính riêng
trong tháng 5, đồng USD đã tăng 5% so với các loại tiền tệ khác, trong
khi thị trường cổ phiếu trên toàn thế giới đều sụt giảm.
Trong 3
thập kỷ qua, thị trường tiền tệ đã chứng kiến những sự kiện kịch tính và
trọng đại. Hầu hết trong số đó đã làm rung chuyển toàn bộ thị trường
tài chính và gây ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu trong nhiều tuần, nhiều
tháng, thậm chí sụp đổ.
Dưới đây là 10 sự kiện trọng đại nhất với thị trường tiền tệ trong những thập kỷ qua:
Thỏa thuận Plaza và sự phá giá của đồng USD (năm 1985)
Được
đặt tên theo một khách sạn tại New York, nơi hiệp ước được ký kết bởi
Mỹ, Pháp, Tây Đức, Nhật Bản và Anh. Mục tiêu của bản hiệp ước là làm
giảm giá trị đồng USD thông qua sự can thiệp trên quy mô lớn của ngân
hàng trung ương vào các thị trường tiền tệ, nơi đồng USD đang được rao
bán với lãi suất thị trường thấp hơn so với các đồng tiền của những quốc
gia khác.
Hiệp ước trên là kết quả của những biến động trong
khoảng thời gian 5 năm từ trước năm 1985, khi đồng USD tăng mạnh so với
các đồng tiền của các đối tác thương mại lớn của Mỹ. Sự tăng giá của
đồng USD đã giết chết khả năng cạnh tranh của công nghiệp Mỹ, gây ảnh
hưởng nặng nề cho hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, tự
động và máy móc, đồng thời châm ngòi cho các cuộc kêu gọi Quốc hội Mỹ
thông qua luật bảo hộ nhằm làm chậm làn sóng nhập khẩu.
George Soros và đồng bảng Anh (1992)
Vào
thập niên 1990, dù là một thập niên thịnh vượng cho nền kinh tế thế
giới, vẫn đầy rẫy những bất ổn trong mọi ngõ ngách của thị trường tiền
tệ thế giới.
Trong giai đoạn đầu của đồng tiền chung châu Âu
euro, Liên minh châu Âu (EU) có hình thức kiểm soát tiền tệ, được gọi là
cơ chế tỷ giá hối đoái nhằm giữ cho các loại tiền tệ chính trong một
phạm vi giá trị tương quan với nhau. Vào lúc đó, Vương quốc Anh cũng xem
xét khả năng gia nhập liên minh tiền tệ này, dù khá miến cưỡng.
Với
một nền kinh tế trên bờ vực suy thoái, nước Anh phải vật lộn để duy trì
cho đồng bảng nằm trong phạm vi thích hợp với đồng mác Đức. Ở thời điểm
đó, giá trị đồng mác bị thổi phồng quá mức do lãi suất tăng cực cao,
liên quan tới chi phí đi vay của nước Đức sau khi thống nhất.
Nhà
đầu tư George Soros cũng nhiều người khác trên thị trường đã cho bán
không đồng bảng Anh trên quy mô lớn và liên tục, khiến giá trị đồng tiền
của Anh giảm xuống mức gây đe dọa cho biên độ giao dịch. Để cứu vãn
tình thế, Chính phủ Anh phải tăng lãi suất đồng thời can thiệp mạnh vào
thị trường. Kết quả, các thương nhân chiếm ưu thế và Anh phải rút khỏi
Cơ chế thị trường ngoại tệ châu Âu. Về phần mình, Soros đã thu về hơn 1
tỷ USD.
Sự sụp đổ của đồng peso, Mexico (1994-1995)

Cựu bộ trưởng tài chính Mexico Jaime Serra Puchera.
Sự
phá giá đột ngột của các loại tiền tệ là một trong những vấn đề khó
khăn nhất của chính phủ các nước, và sự sụp đổ của đồng peso xảy đến
trong bối cảnh nền kinh tế yếu ớt, giá dầu thấp, và các khoản nợ ngày
một chồng chất. Tuy nhiên, Chính phủ Mexico ngay lập tức quyết định đảo
ngược chính sách thắt chặt tiền tệ đã giúp đồng peso biến thành một tiền
tệ cố định.
Động thái trên diễn ra vào thời điểm trùng khớp với
một loạt sự kiện như nợ chính phủ của Mexico được các chủ nợ gia hạn và
Bộ trưởng tài chính Jaime Serra Puchera từ chức sau bạo loạn vũ trang
tại một bang miền Nam. Các nhà đầu tư hoảng loạn bán tháo trái phiếu
Mexico, ngân hàng trung ương cố gắng bảo vệ đồng peso khỏi sụp đổ và làm
suy giảm dự trữ của chính mình.
Chính phủ Mexico đã cho thiết
lập lãi suất cố định mới thấp hơn so với đồng USD song vẫn không làm dịu
được sự hoảng sợ của các nhà đầu tư. Mỹ buộc phải mua đồng peso để ổn
định tình hình và hợp tác với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) để đàm phán gói
giải cứu cho Argentina.
Đồng USD thấp kỷ lục so với đồng yên (1995)
Mùa
xuân năm 1995, thị trường phát tín hiệu báo động khi đồng USD xuống
thấp lịch sử so với đồng yên Nhật Bản. Tỷ giá giữa đồng USD và đồng yên
đặc biệt quan trọng do nền kinh tế Nhật Bản đang phải đương đầu với sự
ghen tị của các đối tác thương mại.
Đây cũng là giai đoạn ra đời
của thuật ngữ "thâm hụt kép", lần đầu được sử dụng để miên tả tình
trạng thâm hụt thương mại song hành cùng thâm hụt ngân sách trên quy mô
lớn của Mỹ.
Đồng USD mất giá trị đã gây ảnh hưởng nặng nề tới
kinh tế thế giới. Theo ghi chép, đồng USD giảm xuống dưới 80 yên. Đối
với nhiều người, nó là báo hiệu sự kết thúc của đồng USD với vai trò là
đồng tiền dự trữ. Tuy nhiên, đối với nhiều người khác, nó lại là bước
khởi đầu của giai đoạn phục hồi của đồng USD trong thập niên mới. Tất
nhiên, 10 năm sau, một lần nữa đồng USD lại xuống mức thấp kỷ lục so với
đồng yên.
Đồng baht Thái Lan sụp đổ và khủng hoảng tài chính châu Á (1997)
Chuỗi
phản ứng dây truyền toàn châu Á khởi đầu từ Thái Lan. Bất động sản bùng
nổ khiến nền kinh tế bị thổi phồng quá mức, ngân hàng trung ương không
đủ lực để bảo vệ cho thị trường và đồng baht gần như vô giá trị.
Các
nhà đầu tư đau đầu tìm cách giải cứu tài sản Thái Lan, đồng thời để mắt
tới các khu vực khác của châu Á, nơi đồng tiền cũng bị suy yếu. Một số
nước đã may mắn không rơi vào vòng xoáy sụp đổ tài chính là Hàn Quốc,
Indonesia, Malaysia và Việt Nam.
Thị trường chứng khoáng về Hàn
Quốc trước đó đã sụt giảm vào mùa thu năm 1997, gây hoảng loạn cho các
nhà đầu tư Mỹ. Nhiều nước châu Á đã nhận được gói cứu trợ tài chính từ
IMF lớn hơn của Mexico.
Khủng hoảng đồng rúp Nga (Năm 1998)
Đồng
rúp đã sống sót sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 ở châu Á, nhưng
sự yếu kém trong quản lý của Matxcơva đã giáng một đòn mạnh vào thị
trường thế giới năm 1998. Chính phủ Nga không duy trì được sự ổn định
trong những năm đầu thời hậu Xô viết cũng như không đặt được nền móng
vững chắc cho nền kinh tế.
Các nhà đầu cơ tiền tệ trên thị
trường đã đồng loạt tấn công đồng rúp, khiến ngân hàng trung ương phải
vất vả chống trọi bằng cách can thiệp vào thị trường và đẩy lãi suất lên
cao. Sự chậm trễ trong gói giải cứu của IMF càng làm tình hình trở nên
tồi tệ hơn.
Khi các nhà đầu tư tháo chạy, Nga gần như vỡ nợ, đồng
rúp bị phá giá nghiêm trọng và thả nổi, khiến các ngân hàng thương mại
phải tạm ngừng thanh toán cho các chủ nợ nước ngoài.
Khủng hoảng kinh tế Argentina (Năm 1998 - 2002)
Nguyên
nhân chính dẫn tới khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng của Argentina là do
đồng peso bị gắn chặt với đồng USD. Đặc biệt, tỷ giá hối đoái thuận lợi
một cách bất hợp lý (1-1) dẫn đến nhập siêu quá mức, làm suy yếu kinh
tế Argentina. Trong khi đó, nợ chính phủ lại quá cao và chồng chất, song
IMF đã bơm tiền và lùi thời gian thanh toán nợ cho Argentina.
Kết
quả là, sự suy giảm của kinh tế Argentina đã buộc IMF phải bắt tay vào
hành động. Trong khi đó, Chính phủ Argentina lại tung ra một loạt chính
sách thắt lưng buộc bụng càng làm nền kinh tế suy yếu hơn, và phải cần
nhiều tiền hơn đề bù đắp thiếu hụt từ các khoản thu thuế. Cải cách và
tình trạng thất nghiệp dẫn đến tình trạng bất ổn dân sự và ngân hàng sụp
đổ.
Ngay sau đó, Argentina bị hãng xếp hạng Standard & Poor
hạ xếp hạng tín nhiệm, khiến chi phí đi vay tăng vọt và chính phủ cũ
phải từ chức và thay bằng một chính phủ mới. Cùng thời điểm đó, IMF cũng
tuyên bố cắt giảm viện trợ cho Argentina.
Cuối năm 2001, bạo
loạn nổ ra trên khắp các đường phố ở Buenos Aires, Argentina tuyên bố vỡ
nợ. Chỉ một thời gian ngắn sau năm 2002, tỷ giá hối đoái cố định 1-1
giữa đồng peso và USD được hạ xuống. Chính phủ Argentina cho thả nổi
đồng peso và đồng tiền này đã nhanh chóng bị rớt giá.
Đồng euro ngang giá với USD (năm 2000)
Khi
Argentina sụp đổ, một câu chuyện khác về tỷ giá hối đoái cân bằng cũng
diễn ra ở hai bờ Đại Tây Dương. Đồng tiền chung châu Âu được tung ra thị
trường vào năm 2000, với tỷ giá ban đầu vào khoảng 1,16 USD. Sau một
loạt phiên gia tăng bau đầu, đồng euro bắt đầu giai đoạn sụt giảm dài và
sâu nhất trong năm. Nguyên nhân là do dòng vốn đổ xô vào kinh tế đang
bùng nổ cùng tài sản đầy hấp dẫn của Mỹ.
Các ngân hàng trung ương
phải nhóm họp, mua lại đồng euro để đẩy giá trị của đồng tiền chung
châu Âu, song không mang lại hiệu quả. Đồng USD trở lại ngôi vương của
mình sau một thời gian bị đồng euro non nớt chiếm giữ. 8 năm sau, đồng
bảng Anh quay lại và đồng euro đã tăng so với đồng USD.
Lạm phát kinh hoàng tại Zimbabwe (1999 - 2009)
Đôi
khi khủng hoảng trở nên vô cùng tồi tệ và Zimbabwe chính là một điển
hình như vậy. Chính phủ đã bỏ rơi đồng đô la Zimbabwe vô giá trị sau hai
thập niên siêu lạm phát.Trong khoảng thời gian 4 năm, ngân hàng trung
ương Zimbabwe đã phát hành tiền với mệnh giá tăng gấp 3 lần. Đỉnh điểm,
Zimbabwe cho phát hành tờ tiền có mệnh giá lên tới 1 nghìn tỷ. Chính phủ
Zimbabwe buộc phải cho phép sử dụng một số ngoại tệ khác như bảng Anh,
euro và USD.
Đồng AUD ngang giá với đồng USD (2010)
Bây
giờ và về sau, một sự kiễn trên thị trường tiền tệ có thể được coi là
một biểu tượng khi nó mang tính chất như một chất xúc tác. Điển hình là
sự kiện diễn ra vào tháng 10/2010 khi đồng AUD ở châu Đại dương biệt lập
sánh ngang hàng với đồng USD đầy quyền lực của Mũ. Đây cũng là lần đầu
tiên kể từ năm 1983, đồng tiền Australia giao dịch ở mức ngang bằng với
đồng USD. Sức mạnh của đồng AUD được nhân đôi so với các đồng tiền khác
nhờ các nguồn tài nguyên thiên nhiên thích hợp cho xuất khẩu.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét