Các nhân tố ảnh hưởng đến đồng USD
Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012
Like nếu bài viết hay
Sơ nét một số các chỉ số, thông tin kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng chính của Mỹ thường được sử dụng trong phân tích
a) Thông tin kinh tế
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Bất cứ một quốc gia nào cũng muốn duy
trì một nền kinh tế tăng trưởng cùng với sự ổn định tiền tệ và công ăn
việc làm cho dân cư mà GDP là một trong những tín hiệu cụ thể của những
nỗ lực của chính phủ. Vì thế việc nghiên cứu khuynh hướng của sự tăng
trưởng GDP, tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ lệ lạm phát giúp chính phủ có
thể thay đổi chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ví
dụ khi có thông tin GDP của nước nào đó tăng lên thì đó là tin tốt cho
đồng tiền nước đó…
- Chỉ số giá cả tiêu dùng(CPI): Là một trong những chỉ số kinh tế quan
trọng của một quốc gia. Vì vậy sự gia tăng nhanh hoặc giảm nhanh của lạm
phát là một dấu hiệu cho thấy rất có khả năng có một sự thay đổi trong
chính sách tiền tệ.
- Sản lượng công nghiệp (Industrial Production): Vì giá trị của ngành
công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong GDP nên một sự thay đổi nhỏ của
chỉ số này cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tốc độ tăng trưởng
GDP và vì thế sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia.
- Số lượng hàng hóa bán lẻ (Retail sales): Bằng việc theo dõi số lượng
hàng hóa bán lẻ trong một thời gian nhất định chính phủ có thể đánh giá
được một cách gần chính xác sự tăng trưởng của việc tiêu dùng cá nhân
của dân cư, mà việc tiêu dùng của xã hội đóng góp rất lớn vào giá trị
của GDP.
- Hàng tồn kho (Inventories): Tỉ lệ hàng tồn kho là một yếu tố quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ nếu tỉ lệ tồn kho
tăng cao tức là sức mua trong nền kinh tế đang có chiều hướng giảm sút
sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế và
ngược lại.
……….
- Ngoài ra trên thị trường còn có rất nhiều các chỉ số quan trong khác
mà bất cứ một dealer nào cũng quan tâm như: cung tiền M2, chỉ số thất
nghiệp, doanh số nhà mới khởi công, doanh số bán nhà hiện có, đơn hàng
nhà máy, đơn hàng hoá lâu bền, chi tiêu tiêu dùng, thu nhập cá nhân,
bảng lương phi nông nghiệp, chỉ số ISM ngành sản xuất và dịch vụ, cán
cân thương mại…
b)- FED-FOMC- Fed fund Rate & Discuont rate
Federal Reserve Bank ( FED): Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Được toàn quyền thiết lập chính sách tiền tệ của Mỹ với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. chính sách chính của FED được thể
hiện ở hoạt động thị trường mở, lãi suất chiết khấu ( Discuont rate),
lãi suất mục tiêu (Fed Fund rate).
Federal Open Market Committee ( FOMC): ủy ban điều hành thị trường mở,
chịu trách nhiệm ra quyết định điều hành chính sách tiền tệ, quan trọng
là công bố lãi suất cơ bản 8 lần/ năm. 12 thành viên của hội đồng bao
gồm 7 thành viên của hội đồng thống đốc ( Board of Governors), chủ tịch
của ngân hàng dự trữ New York ( Federal Reserve Bank of New York), và 4
thành viên còn lại được luân phiên giữa chủ tịch 11 Ngân hàng dự trữ còn
lại.
Fed fund Rate (lãi suất mục tiêu, lãi suất cơ bản của đồng USD): đây là
mức lãi suất quan trọng nhất, nó là mức lãi suất mà các tổ chức tài
chính sử dụng cho những khoản vay nợ hay gửi tiền qua đêm. Thông thường
khi có sự thay đổi trong mức lãi suất này ám chỉ dấu hiệu sự thay đổi
trong chính sách tiện tệ của Fed. Những thông báo liên quan tới vấn đề
này gây ảnh hưởng rất lớn lên thị trường chứng khoán, trái phiếu, thị
trường ngoại hối.
Discuont rate (lãi suất chiết khấu): lãi suất mà Fed áp dụng cho ngân
hàng thương mại khi vay lại Fed, sự thay đổi trong mức lãi suất này cũng
ám chỉ đến chính sách tiền tệ của Fed. Thông thường discount rate thấp
hơn Fed Fund rate.
c) Trái phiếu và lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD
-10 year treasury note: lãi suất trái phiếu 10 năm.
Sau khi phát hành trái phiếu kỳ hạn 30 năm chấm dứt vào tháng 10/2001.
Trái phiếu kỳ hạn 10 năm trở thành tiêu chuẩn cho mức lãi suất dài hạn.
Đó là dấu hiệu quan trọng nhất trên thị trường về tín hiệu lạm phát.
Thông thường thị trường dùng mức lợi tức ( hơn là giá) để xác định mức
độ trái phiếu. Giá trái phiếu có tỷ lệ nghịch chiều với tỷ lệ lãi suất.
Không có mối quan hệ rõ ràng giữa trái phiếu dài hạn và đồng USD tuy
nhiên có thể sử dụng ý tưởng sau: một sự sụt giảm trong giá trị của trái
phiếu ( do lợi tức tăng) thông thường do tác động của lạm phát tăng có
thể gây áp lực lên USD.
- Lợi tức 10 năm trái phiếu: thị trường trái phiếu ngoại hối thường đánh
giá sự khác biệt giữa lợi tức trái phiếu kỳ hạn 10 năm với các loại
trái phiếu cùng kỳ hạn của các nước khác như Đức ( German 10 year bund),
Nhật (10 year JGB), Anh (10 year gilt), sự chênh lệnh có thể tác động
đến biến động tỷ giá, thường thì một sự gia tăng của lợi tức 10 năm của
trái phiếu Mỹ làm cho đồng USD tăng giá.
- 3 month Eurodollar Deposits: đây là mức lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD tại các ngân hàng ngoài biên giới nước Mỹ.
Thông thường được sử dụng như một tiêu chuẩn trong việc xác định sự
chênh lệch lãi suất từ đó có thể dự báo biến động tỷ giá. Ví dụ như
trường hợp tỷ giá USDJPY, nếu như lãi suất chênh lệch giữa eursdollar và
euryen càng lớn thì khả năng tỷ giá USDJPY bị tác động theo xu hướng
tăng lên.
d) Các nhà chính trị hay các lãnh đạo kinh tế
Các thành viên chính phủ hay những người đứng đầu các ngân hàng trung
ương, chính những người này có thể gây ảnh hưởng tới giá trị của một
loại tiền tệ nào đó qua những gì họ noí, những gì họ làm. Các chức vụ
quan trọng như: tổng thống, thủ tướng, thống đốc hay chủ tịch các ngân
hàng… luôn có sự thay đổi theo nhiệm kỳ hay có lý do khác. Nhưng chúng
luôn được quan tâm chặt chẽ từ các nhà đầu tư, dù ai ngồi vào các vị trí
đó thì những quyết sách của họ đều rất quan trọng và đều có những thay
đổi, những tác động nhất định tới thị trường ngoại hối.
Ở NHTW, đối với Mỹ là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) thì khi tỷ giá biến
động theo một chiều hướng bất lợi tác động xấu tới nền kinh tế, NHTW có
thể can thiệp vào nhằm ổn định tỷ giá và đưa tỷ giá trở về tầm kiểm soát
theo hướng có lợi cho chính sách tiền tệ. Việc can thiệp này trong
những năm gần đây thường thực hiện bằng hai cách: can thiệp miệng (
verbal intervention) hoặc can thiệp trực tiếp vào thị trường.
e) Những nhân tố chính trị ( ví dụ điển hình)
Những nhân tố chính trị đôi khi có thể tác động và gây ra ảnh hưởng lớn
đến biến động tỷ giá. Nó làm tỷ giá biến động khá nhanh và mạnh tùy theo
từng trường hợp có thể kéo dài hay chấm dứt nhanh chóng.
- Việc Anh gia nhập EU.
- Việc các nước Châu Âu không ký hiệp ước Châu Âu.
- Việc bầu cử tổng thống Mỹ.
- Việc ông Sarkozy thắng cử tổng thống Pháp.
- Căng thẳng Trung Đông, Bắc Triều Tiên…
- Vấn đề định giá lại CNY.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên thì những nguyên nhân sau làm biến động tỷ giá như:
+ Sự gia tăng đáng kể các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích
tìm kiếm các cơ hội sinh lới khi tỷ giá biến động. đối với các đối tượng
này thì tỷ giá biến động theo hướng nào là không quan trọng cái chính
họ cần là thị trường phải biến động.
+ Các luồng vốn di chuyển nhằm thanh toán sự mất cân đối trong cán cân
thanh toán quốc tế giữa các quốc gia.Các nhà đi vay cũng có xu hướng tìm
kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau nhằm giảm chi phí vay,
các quỹ đầu tư cũng di chuyển nguồn vốn vào các đồng tiền có lợi nhuận
cao nhất. Cộng thêm các biến động về lãi suất càng làm các quá trình
trên diễn ra mạnh mẽ.
Các nhà đầu cơ trên thị trường bao gồm:
1.Nhà đầu cơ hay leveraged investor (Hedge fund).
2.Định chề đầu tư (pension fund, thường thông qua các công ty quản lý tài sản, investmen bank)
3.Các công ty
4.Các loại khác (bao gồm cả các NHTW)
+ Tỷ giá chéo: tỷ giá USD và một đồng tiền khác đôi khi bị ảnh hưởng bởi
các cặp tỷ giá khác. Ví dụ như một sự gia tăng nhanh chóng của đồng JPY
so với EUR (EURJPY) tạo nên một sự mất giá của EUR, bao gồm luôn cả sự
sụt giảm EURUSD.
+ Tác động của nhân tố mang tính chu kỳ: Đây là các hoạt động ngoại có
tính chất lặp lại hàng năm trong những thời điểm nhất định, có thể gây
ra những biến động tỷ giá mà ta có thể định trước, tuy nhiên quá trình
này không phải lúc nào cũng xảy ra giống nhau mà có thể có sự điều chỉnh
biến động khác đi.
+ Tác động của những nhân tố khác: Những nhân tố khác, ít xảy ra thường
xuyên cũng có tác động lớn tới biến động tỷ giá như các kỳ họp của G7,
IMF, hội nghị kinh tế các nước, các khu vực … các thông tin mua bán, sát
nhập các công ty có giá trị trên hàng tỷ USD. Dưới đây là Bảng phụ lục
về các thông số cơ bản về kinh tế của Mỹ, để các bạn mới vào trade Vàng
nắm rõ. ( Phần này Kim Phát Tài tham khảo và trích từ 1 số nguồn khác
nhau). Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đồng tiền của một quốc gia, sự
tăng hay giảm tỉ giá đồng tiền phụ thuộc vào các chỉ số kinh tế. Dưới
đây là những thông tin kinh tế đáng chú ý để đánh giá và dự đoán tỉ giá.
VIỆC LÀM
Các báo cáo về tình trạng thất nghiệp:
Được công bố hàng tuần, chí số này cho biết có bao nhiêu người đang xin
trợ cấp thất nghiệp lần đầu tiên. Số lượng người càng ít cho dấu hiệu
nền kinh tế đang có dấu hiệu tốt, bởi vì những người thất nghiệp thì
thường có xu hướng chi tiêu ít hơn, điều này có tác động xấu đến nền
kinh tế của quốc gia.
Bảng lương phi nông nghiệp:
Được công bố hàng tháng cho biết số lượng các công việc mới được tạo ra
(ngoài lĩnh vực nông nghiệp). Số lượng công việc càng nhiều thì đồng
tiền của quốc gia càng mạnh, bởi vì càng nhiều người có việc làm thì họ
kiếm được nhiều tiền hơn và họ sẽ chi tiêu nhiều hơn.
TIÊU DÙNG:
Chỉ số tiêu dùng cá nhân:
Cho thấy mức độ lạm phát mà mọi người phải gánh chịu, nó phản ảnh sự
thay đổi trong giá cả của các mặt hàng tiêu dùng và các dịch vụ (không
bao gồm thực phẩm và năng lượng). Những biến động lớn về giá cả sẽ có
tác động xấu lên nền kinh tế bởi vì nó thể hiện sự không ổn định và sự
không ổn định này sẽ khiến cho người dân chi tiêu ít hơn.
Doanh số bán lẻ:
Được công bố 1 lần mỗi tháng, nó đo lường giá trị của doanh số bán lẻ.
Sự gia tăng trong doanh số bán lẻ cũng đồng nghĩa là nền kinh tế quốc
gia đang phát triển mạnh hơn, bởi vì nó cho thấy người dân đang chi tiêu
nhiều hơn.
Tổng sản phẩm quốc nội GDP:
Được tổng kết hàng năm, thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch
vụ mà nền kinh tế của quốc gia sản xuất ra. Sự tăng lên của GDP cho
thấy nền kinh tế của quốc gia đang phát triển mạnh hơn. Nó khuyến khích
người dân đầu tư nhiều hơn vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu trong
nước đồng thời cũng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Cán cân thương mại:
Thể hiện sự chênh lệch về giá trị của các hàng hoá dịch vụ xuất khẩu và
nhập khẩu. Sự thặng dư trong cán cân thương mại có nghĩa là giá trị của
các hàng hoá dịch vụ được xuất khẩu đang nhiều hơn nhập khẩu. Sự tăng
lên trong cán cân thương mại cho thấy đồng tiền của quốc gia đang mạnh
dần lên bởi vì khi nhu cầu xuất khẩu nhiều hơn thì số lượng công ăn việc
làm sẽ tăng lên và mức độ sản xuất gia tăng ở các nước xuất khẩu. Điều
này cũng sẽ khiến cho các nhà nhập khẩu nước ngoài sẽ phải đổi đồng tiền
của họ sang đồng tiền của nước xuất khẩu để mua hàng.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Chỉ số CPI đo lường sự gia tăng của giá cả trong một rổ hàng hoá và dịch
vụ (như thực phẩm, vận tải, nhà ở, v.v…). Chỉ số CPI này tăng lên nghĩa
là giá cả của rổ hàng hoá dịch vụ đó đã gia tăng và chúng ta phải tốn
nhiều tiền hơn để mua một rổ hàng hoá dịch vụ tương tự. Sự tăng lên của
chỉ số CPI sẽ có tác động tích cực lên nền kinh tế (và đương nhiên là
đồng tiền của quốc gia) bởi vì nó cho thấy người ta có đủ tiền để mua
hàng hoá và dịch vụ mặc dù giá của chúng có gia tăng.
BẤT ĐỘNG SẢN:
Doanh số nhà mới:
Các số liệu về doanh số bán nhà mới là một chỉ số rất quan trọng cho
thấy xu hướng chung của nền kinh tế. Sự tăng lên trong doanh số bán nhà
mới cho thấy ngành xây dựng đang phát triển rất tốt và người tiêu dùng
có đủ tiền để mua những tài sản có giá trị lớn. Những người mua nhà này
sẽ mua thêm nhiều hàng hoá khác, cùng lúc đó thì các công ty xây dựng
cũng cần phải thuê công nhân và mua vật liệu, vì vậy nó tạo nên một tác
động, một làn sóng tích cực cho nền kinh tế và thúc đẩy sự tăng giá của
đồng tiền.
Doanh số nhà chờ bán:
Đo lường hoạt động của doanh số bán nhà hiện tại. Nó bao gồm nhà của các
gia đình riêng lẻ, chung cư. Nhu cầu mua nhà càng tăng chứng tỏ nền
kinh tế đang phát triển tốt bởi vì người dân cảm thấy rất thoải mái và
sẵn sàn đầu tư vào nhà ở. Ngoài ra, việc đầu tư này cũng thường kéo theo
các hoạt động mua hàng khác như các thiết bị điện, tủ bàn ghế … sẽ mang
lại thu nhập cho những nhà kinh doanh bất động sản, tất cả những điều
này đều rất tốt cho nền kinh tế.
Chỉ số nhà xây mới:
Cho biết số lượng các cao ốc đang được xây dựng. Con số này càng cao thì
giá trị của đồng tiền của quốc gia cũng cao bởi vì nó cho thấy ngành
xây dựng đang phát triển tốt và nhiều người đang đầu tư vào lĩnh vực
này.
SẢN XUÂT:
Chỉ số sản xuất ISM:
Đo lường hoạt động thu mua trong khu vực sản xuất. Sự tăng lên của ISM
cho thấy đồng tiền của quốc gia đang mạnh dần lên. Các chỉ số thể hiện
hoạt động thu mua này là những chỉ số tốt bởi vì chúng đánh giá tình
hình hoạt động của một công ty, thường đi đôi với những biểu hiện toàn
diện của nền kinh tế.
Sản xuất công nghiệp:
Đo lường giá trị của sản lượng đầu ra được sản xuất bởi các nhà máy, hầm
mỏ. Sự tăng lên trong sản xuất công nghiệp cho thấy đồng tiền của quốc
gia đang mạnh dần lên bởi vì giá trị của nó càng cao cho thấy số lượng
lớn các sản phẩm đang được sản xuất và bán ra, vì thế người dân có thu
nhập và sẵn sàng chi tiêu.
Chỉ số giá của các nhà sản xuất PPI:
Kiểm tra sự khác biệt trong giá bán hàng hoá và dịch vụ của các nhà sản
xuất. Bởi vì các nhà sản xuất thường có xu hướng tăng giá bán lẻ khi các
chi phí sản xuất gia tăng, PPI có thể được xem là một chỉ số biểu hiện
sự lạm phát. PPI tăng lên sẽ khiến cho Ngân hàng Trung Ương cũng tăng
lãi suất theo. Sự tụt giảm của PPI cho thấy giá cả đang giảm xuống và
suy thoái kinh tế đang bắt đầu xuất hiện.
Các đơn hàng cho những hàng hoá sử dụng lâu bền:
Đo lường giá trị của các loại hàng hoá có vòng đời lâu hơn 3 năm, mà
người tiêu dùng mua - được sản xuất ở thị trường nội địa. Chỉ số này
giúp dự đoán xem các nhà sản xuất đang bận rộn đến mức nào bởi vì họ cần
phải làm việc tích cực để đáp ứng kịp các đơn hàng. Vì thế, xu hướng
tăng lên sẽ có tác động tích cực lên đồng tiền quốc gia.
LÃI SUẤT NGÂN HÀNG:
Công bố của ngân hàng trung ương Anh (BoE):
Uỷ ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương Anh thường tổ chức bỏ
phiếu biểu quyết hàng tháng để đưa ra mức lãi suất của quốc gia trong
ngắn hạn.
Công bố của Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB):
Ban quản lý của Ngân hàng Trung ương Châu Au thường bỏ phiếu biểu quyết
hàng tháng để đưa ra mức lãi suất của cộng đồng này trong ngắn hạn.
Công bố của Cục dự trư Liên bang Mỹ (FED):
Uỷ ban kiểm soát thị trường tự do của Fed thường bỏ phiếu biểu quyết 8 năm một lần.
Kết quả của các cuộc bỏ phiếu của (BoE; ECB hay FED) sẽ được công bố
nhanh chóng. Nó thường đi kèm với một vài lời bình luận vắn tắt về tình
hình kinh tế và các nhân tố tác động. Mức lãi suất thường được quyết
định dựa trên tình hình lạm phát. Mục đích là để giữ cho giá cả ổn định,
vì thế khi lạm phát tăng trên mức lãi suất của năm 2% thì các ngân hàng
này thường cũng tăng lãi suất để kìm giá xuống. Mức lãi suất cao sẽ thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài, làm gia tăng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ
để lấy nội tệ. Có thể nói rằng xu hướng gia tăng của lãi suất có tác
động tích cực lên nền kinh tế của quốc gia.
Biên bản cuộc họp của FOMC
Biên bản cuộc họp của Uỷ ban kiểm soát thị trường tự do sẽ giúp cho các
thành viên đưa ra các chính sách và quyết định liên quan tới lãi suất.
KHẢO SÁT KINH TẾ:
Cuộc khảo sát của ZEW:
Sẽ giúp cung cấp các nhận định của các chuyên gia tài chính có đề cập
tới xu hướng kinh tế trong thời gian tới cho cộng đồng chung Châu Âu. Sự
khác biệt về số lượng nhà đầu tư hàng tháng sẽ giúp dự đoán được sự
tăng trưởng của nền kinh tế là tăng hay giảm.
Chỉ số PMI của Chicago (Mỹ):
Thể hiện tình hình chung của môi trường kinh doanh ở Chicago. Tình hình
thu mua hàng tháng sẽ trả lời cho cuộc khảo sát có liên quan đến hoạt
động của tổ chức họ (nó cao hơn, bằng, hay thấp hơn so với tháng trước)
các vấn đề về sản lượng đầu ra, tình hình thu mua, số lượng việc làm, số
lượng hàng tồn kho, các đơn hàng và các chỉ số giá cả.
Quỹ ngân khố quốc tế TIC:
Theo dõi dòng chảy của dòng tiền của các quỹ ra và vào lãnh thổ nước Mỹ
(trên thị trường cổ phiếu, trái phiếu). Con số này sẽ được thể hiện theo
mức triệu đôla, thể hiện sự chênh lệch giữa chi tiêu của nước Mỹ vào cổ
phiếu của các công ty nước ngoài và cổ phiếu của các công ty Mỹ. Đây là
chỉ số quan trọng của nền kinh tế Mỹ và giúp họ có cái nhìn thấu đáo về
nhu cầu của nước ngoài vào các lĩnh vực đầu tư và đồng đôla Mỹ. Ví dụ,
nếu Mỹ mua 10 tỷ đôla cổ phiếu của các công ty nước ngoài và các nhà đầu
tư nước ngoài mua 30 tỷ đôla chứng khoán của các công ty Mỹ để đầu tư
dài hạn, thì con số chênh lệch sẽ là 20 tỷ đôla.
Niềm tin tiêu dùng:
Đo lường thái độ của người tiêu dùng đối với các tình hình kinh tế, họ
đánh giá như thế nào vào các triển vọng kinh tế trong tương lai. Con số
cao sẽ thể hiện sự lạc quan của người tiêu dùng; có thể nói là người
tiêu dùng đang rất lạc quan về các triển vọng phát triển kinh tế. Và kết
quả là họ sẽ chi tiêu nhiều hơn, điều này sẽ kích thích lại nền kinh
tế.
Mức độ nhạy cảm của người tiêu dùng:
Đo lường thái độ của người tiêu dùng cả về tình hình hiện tại và các kỳ
vọng vào tương lai. Nó xuất phát từ kết quả của cuộc khảo sát trên 500
người hàng tháng của trường đại học Michigan. Mức độ nhạy cảm càng cao
sẽ cho thấy mức chi tiêu dùng sẽ gia tăng, nó chiếm tới 2/3 nền kinh tế.
CHÚ Ý:
Các thông tin kinh tế được công bố sẽ có ảnh hưởng tới giá thị trường
khi có sự chênh lệch giữa số liệu kỳ vọng và số liệu thực tế được công
bố. Có thể xem lịch thông tin ở địa chỉ @ http://www.forexfactory.com/calendar.php
Thị trường có những biến động đều đặn thì sẽ không bị ảnh hưởng nhiều
bởi các tin tức được công bố. Ngược lại, khi thị trường đi ngang, không
có nhiều biến động thì khi tin được công bố sẽ có thể có nhiều biến động
lớn.
Hãy lưu ý rằng thông tin kinh tế được công bố vẫn rất tiềm ẩn sự rủi ro.
Tags:
Forex,
Phan tich co ban
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét