Phân tích cơ bản

16:50 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0 Mời các bạn xem ở link này:
http://choifx.blogspot.com/search/label/Phan%20tich%20co%20ban
Read more…

Sổ tay các chỉ số kinh tế cơ bản (phần 3)

23:20 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
15. New Home Sales – Doanh số bán nhà mới
Định nghĩa: được xem như là một chỉ số thống kê số lượng nhà vừa bán ra cho các gia đình mới. chỉ số này dựa trên kết quả phỏng vấn 10,000 nhà thầu hoặc các chủ đầu tư của 15,000 dự án bất động sản được lựa chọn. chỉ số sẽ đo lường số lượng căn hộ mới được xây dựng so với doanh số bán cam kết trong 1 tháng.
Ý nghĩa: chỉ số này xem xét các số liệu lạc quan về chi tiêu cho việc mua nhà và các mặt hàng có liên quan cũng như chi phí tiêu dùng nói chung của người dân. Tuy nhiên, các nhà đầu tư lại thích sử dụng các báo cáo doanh thu căn hộ đã có sẵn hơn vì nó phản ánh tới gần 84% số lượng nhà được bán và thường được công bố vào đầu tháng.
Cơ quan phát hành: Cục thống kê dân số của Bộ Thương mại

Thời điểm phát hành: khoảng 10:00 sáng ngày làm việc cuối cùng của tháng (10h tối giờ Việt Nam). Dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng so với dữ liệu tháng trước.
 
16. Personal Income and Consumption – Thu nhập và tiêu dùng cá nhân
Định nghĩa: thu nhập cá nhân ở đây chỉ thu nhập của hộ gia đình có từ tất cả các nguồn khác nhau như: tiền lương, tiền từ hoạt động kinh doanh, đầu tư và kể cả tiền chuyển khoản.
Tiêu dùng cá nhân được phân ra thành tiêu dùng cho các sản phẩm thiết yếu, không thiết yếu và dịch vụ.
Ý nghĩa: thu nhập là yếu tố quan trọng quyết định việc tiêu dùng (ở Mỹ, cứ mỗi Dollar được làm ra thì sẽ có 95 cent được tiêu dùng) và tổng giá trị tiêu dùng chiếm khoảng 2/3 nền kinh tế. Gia tăng tiêu dùng sẽ kích thích tăng trưởng và tạo thêm lợi nhuận cho thị trường chứng khoán.
Cơ quan phát hành: Cục phân tích kinh tế thuộc phòng Thương mại
Thời điểm phát hành: 8:30 (ET) sáng ngày làm việc đầu tiên của tháng (8h30 tối giờ Việt Nam). Lấy dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu của 3 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo thời gian sẽ được công bố vào tháng Sáu. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh hưởng tới ít nhất dữ liệu của 5 năm. Tầm quan trọng là vừa phải.
 
17. Philadelphia Fed
Định nghĩa: chỉ số sản xuất vùng tổng hợp kết quả của các bang Pennsylvania, New Jersey và Delaware. Những vùng này đại diện cho khu vực sản xuất hỗn hợp của quốc gia.
Ý nghĩa: nếu chỉ số có giá trị đạt trên 50% tức là khu vực sản xuất đang mở rộng, ngược lại nếu dưới 50% thì sản xuất đang thu hẹp.
Nếu kết hợp chỉ số này với chỉ số Chicago Purchasing Manager sẽ hỗ trợ cho việc dự báo chính xác hơn kết quả của chỉ số ISM- là chỉ số dẫn đầu trong các chỉ số đánh giá tổng quan hoạt động kinh tế.
Cơ quan phát hành: ngân hàng dự trữ bang Philadelphia
Thời điểm phát hành: 10:00 (ET) sáng ngày thứ năm thứ ba của tháng (10h tối giờ Việt Nam). Dữ liệu được lấy của tháng hiện tại.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: những nhân tố thay đổi theo thời gian mới sẽ được công bố vào đầu năm. Tầm quan trọng ở mức vừa phải.
 
18. Producer Price Index (PPI) – Chỉ số giá sản xuất
Định nghĩa: PPI đo lường mức giá trung bình của một rổ hàng hoá và tiền vốn cố định ở mức giá bán sỉ. Có 3 dạng của PPI đó là : công nghiệp , hàng hoá và quá trình sản xuất.
Ý nghĩa: việc kiểm soát chỉ số PPI (không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng) được xem là rất quan trọng nhằm ổn định mức giá hàng tháng. Nó còn được gọi là core PPI, cho ta một bức tranh rõ ràng hơn về xu hướng lạm phát cơ bản.
Sự thay đổi của core PPI được coi là 1 dấu hiệu của lạm phát. Áp lực của lạm phát được sản sinh khi core PPI tăng cao trên mức dự kiến.
Cơ quan phát hành: Cục Thống kê Lao động thuộc Phòng Lao động Hoa Kỳ.
Thời điểm phát hành: 8:30 (ET) sáng ngày 11 hàng tháng (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu của 3 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo thời gian sẽ được công bố vào tháng Hai. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh hưởng tới ít nhất dữ liệu của 5 năm. Tầm quan trọng là không đáng kể.

19. Retail Sales – Doanh số bán lẻ

Định nghĩa: doanh số bán lẻ đo lường tổng doanh số của ngành bán lẻ tại Mỹ (không bao gồm doanh số ngành dịch vụ). số liệu này được tính toán trên đồng Dollar Mỹ, không điều chỉnh khi lạm phát nhưng điều chỉnh theo thời điểm: mùa, lễ, ngày giao dịch và những thời điểm này khác nhau giữa các tháng trong năm.
Ý nghĩa: đây là chỉ số chính xác nhất trong số những chỉ số tiêu dùng. Chỉ số này chỉ ra ý nghĩa của những xu hướng giữa những nhóm nhà bán lẻ khác nhau. Những xu hướng này sẽ giúp chỉ ra những cơ hội đầu tư đặc biệt.
Việc giám sát doanh số bán lẻ (không bao gồm sản phẩm ôtô và xe tải) là rất quan trọng nhằm tránh những biến động bất ngờ của nền kinh tế.
Cơ quan phát hành: ban điều tra dân số của phòng thương mại
Thời điểm phát hành: khoảng 8:30 (ET) sáng ngày 12 hàng tháng (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng.
Xét duyệt: dữ liệu của 2 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo thời gian sẽ được công bố vào tháng Hai. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh hưởng tới dữ liệu của ít nhất 5 năm. Tầm quan trọng của chỉ số này là khá lớn.
 
20. International Trade – Thương mại quốc tế
Định nghĩa: báo cáo này đánh giá sự khác bịêt giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của Mỹ.
Ý nghĩa: nhập khẩu và xuất khẩu là bộ phận quan trọng của toàn bộ hoạt động kinh tế, đóng góp lần lượt 14% và 12% vào GDP. Ngoài ra, xuất khẩu phát triển còn thúc đẩy sự phát triền của thị trường chứng khoán.
Bất kỳ biến động nào trong 1 nền kinh tế đều gây ảnh hưởng tới thương mại và chính sách thương mại của nó với các nước bạn hàng, vì thế, báo cáo này cũng rất quan trọng với các nhà đầu tư quan tâm tới đa dạng hoá toàn cầu.
Cơ quan phát hành: ban điều tra dân số và ban phân tích kinh tế của phòng thương mại.
Thời điểm phát hành: khoàng 9:30(ET) sáng ngày 19 hàng tháng (9h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu của 2 tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng.
Xét duyệt: dữ liệu của 3 tháng trước đó được xem xét hàng tháng để tổng hợp ra những thông tin hoàn chỉnh hơn. Những nhân tố mới thay đổi theo thời gian sẽ được công bố vào tháng Bảy. Việc xét duyệt này sẽ có ảnh hưởng tới dữ liệu của ít nhất 3 năm. Tầm quan trọng của chỉ số này là khá nhỏ.
Read more…

Sổ tay các chỉ số kinh tế cơ bản (phần 2)

23:19 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
home+sale
8. Existing Home Sales – Doanh số bán nhà sẵn có
Định nghĩa: Báo cáo này tính toán tỉ lệ bán nhà không sở hữu hoàn toàn. Nó được xem như là chỉ số hoạt động trong lĩnh vực nhà ở.
Ý nghĩa: Nó cung cấp tiêu chuẩn đánh giá không chỉ cho nhu cầu nhà ở mà còn là bước chuyển kinh tế. Mọi người phải có khả năng tài chính vững vàng khi mua một ngôi nhà.
Nguồn: Hiệp hội bất động sản quốc gia
Thời điểm phát hành: 10h sáng (10h tối giờ Việt Nam) ngày 25 hàng tháng (hoặc ngày giao dịch đầu tiên sau đó). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng


Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng cho tháng trước đó. Những xét duyệt đó có thể là đối tượng cho những thay đổi quan trọng. Cũng có kiểm tra hằng năm cho 3 năm trước đó. Mốc chuẩn là 10 năm.



9. Gross Domestic Product (GDP) – Tổng sản lượng nội địa

Định nghĩa: GDP tính toán giá trị đồng dollar của tất cả các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất trong biên giới Liên bang Mỹ, bất chấp các sản phẩm và dịch vụ thuộc sở hữu của ai hay quốc tịch của người lao động sản xuất ra hàng hóa đó.
Số liệu cho cả đồng tiền thực và ảo. Nhà đầu tư luôn theo dõi tỉ lệ tăng trưởng thật vì nó điều chỉnh mức độ lạm phát.
Ý nghĩa: Đây là thước đo nền kinh tế tốt nhất. GDP tăng trưởng tốt là từ 2% – 2.5% (khi tỉ lệ thất nghiệp trong khoản 5.5% – 6.0%) Chuyển sang khả năng hợp tác kiếm tiền, đó là dấu hiệu tốt cho thị trường chứng khoán.
Mức tăng trưởng GDP cao làm đẩy nhanh tốc độ lạm phát, trong khi mức tăng GDP thấp là biểu hiện của một nền kinh tế yếu kém.
Cơ quan phát hành: Cục phân tích kinh tế, Bộ Thương mại Mỹ
Thời điểm phát hành: tuần thứ 3 hoặc thứ 4 trong tháng của quý được ưu tiên, với những xét duyệt từ tháng 2 và 3 trong quý.
Mật độ: theo quý
Xét duyệt: Những đánh giá được đưa ra trong tháng thứ 2 và thứ 3 của quý dựa trên những thông tin hoàn chỉnh. Dữ liệu chuẩn và những yếu tố mới thay đổi theo mùa được giơi thiệu trong tháng 7 với dữ liệu của quý 2. Nó có hiệu lực nhất 3 năm và cũng khá quan trọng.

10. Housing Starts and Building Permits – Bắt đầu xây nhà và giấy phép công trình

Định nghĩa: Là số lượng nhà ở được xây dựng hằng tháng.
Ý nghĩa: Dùng để dự đóan sự thay đổi của GDP. Trong khi đầu tư nhà ở chiếm 4% GDP, tính không ổn định của nó chiếm phần nhiều hơn trong sự thay đổi GDP trong thời gian tương đối ngắn.
Nguồn: Bộ phận tính toán của Bộ thương mại
Thời điểm phát hành: khỏang ngày 16 của tháng, lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Dữ liệu được xét duyệt hàng tháng lầy từ 2 tháng trước đó để kết hợp thông tin chặt chẽ hơn. Những yếu tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu trong thág 2 với những thông tin có được từ tháng 1. Nó có hiệu lực ít nhất 3 năm, và không quan trọng lắm.

11. Industrial Production and Capacity Utilization – Sản xuất công nghiệp và công nghiệp phục vụ công cộng
Định nghĩa: chỉ số sản xuất công nghiệp là một chuỗi đo lường trọng lượng sản phẩm của các ngành sản xuật vật chất, khai khóang và ngành công nghiệp phục vụ công cộng. Capacity utilization đo lường tỉ lệ giữa năng suất sử dụng đất và công cụ lao động được dùng trong các ngành công nghiệp nói trên.
Ý nghĩa: trong một nển kinh tế, khu vực công nghiệp chiếm khoảng 25% GDP, vì thế GDP thay đổi chủ yếu do tác động của khu vực công nghiệp. Do đó, sự biến đổi chỉ số sản xuất công nghiệp cung cấp những thông tin bổ ích về tình hình tăng trưởng hiện tại của GDP.
Các nhà đầu tư sử dụng chỉ số này như một chỉ báo lạm phát. Khi chỉ báo này tăng cao trên 85% tức là nguy cơ lạm phát xuất hiện.
Cơ quan phát hành: Uỷ ban điều hành Hệ thống dự trữ Liên bang
Thời điểm phát hành: vào khoảng 9:15 sáng ngày 15 hàng tháng (9h15 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu thu thập của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng so với 3 tháng trước đó nhằm giúp phản ánh thông tin hoàn chỉnh hơn. Các nhân tố điều chỉnh theo mùa sẽ được công bố vào tháng 12. Sự xét duyệt này ảnh hưởng tới dữ liệu của ít nhất 3 năm và tầm quan trọng là vừa phải.
 
12. Initial Claims
Định nghĩa: một chỉ số của chính phủ nhằm theo dõi số lượng người than phiền để xác định tình hình bảo hiểm thất nghiệp.
Ý nghĩa: các nhà đầu tư sử dụng đường trung bình trượt 4 tuần của chỉ số này để dự đoán xu hướng của thị trường lao động. Sự dịch chuyển của 30,000 (hoặc hơn) than phiền báo hiệu tình hình tăng trưởng việc làm ổn định. Nên nhớ rằng số lượng than phiền càng thấp thì thị trường việc làm càng vững mạnh và ngược lại.
Cơ quan phát hành: ban điều phối đào tạo và việc làm của Bộ Lao động.
Thời điểm phát hành: 8:30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam), thứ năm. Dữ liệu thu thập trong 1 tuần và kết thúc trước ngày thứ bảy
Mật độ phát hành: hàng tuần
Xét duyệt: đối chiếu số liệu với số liệu tuần trước được công bố vào thứ năm hàng tuần. Tầm quan trọng ở mức độ vừa phải.

13. ISM Manufacturing Index – Chỉ số sản xuất ISM
Định nghĩa: Chỉ số sản xuất ISM được xác đinh dựa trên bản khảo sát 300 giám đốc phụ trách mua hàng của các công ty trên toàn quốc, đại diện cho 20 ngành công nghiệp có liên quan tới hoạt động sản xuất. nó bao gồm những chỉ báo liên quan đến các đơn hàng mới, sản xuất, việc làm, tồn kho, giao nhận, giá cả và đơn hàng xuất nhập khẩu.
Ý nghĩa: chỉ số này được xem là dẫn đầu trong số tất cả các chỉ số sản xuất. nếu chỉ số này đạt giá trị trên 50% sẽ được coi là có dấu hiệu của sự phát triển mở rộng trong khu vực sản xuất và sự vững mạnh của nền kinh tế, trong khi một giá trị dưới 50 sẽ được liên hệ tới sự giảm sút hoặc thu hẹp.
Thêm vào đó, các thành phần thay thế khác của chỉ số cũng chứa đựng nhiều thông tin hữu ích về hoạt động sản xuất. các bộ phận của ngành sản xuất thì liên quan đến sản xuất công nghiệp, những đơn đặt hàng mới có liên quan tới những đơn đặt hàng lâu dài, việc làm sẽ liên quan tới bảng lương, giá thành sẽ liên quan tới giá sản xuất, đơn hàng xuất khẩu liên quan tới xuất khẩu mậu dịch, còn đơn hàng nhập khẩu liên quan tới nhập khẩu mậu dịch.
Chỉ số này sẽ điều chỉnh khác nhau tuỳ thuộc vào từng thời kỳ nhất định trong năm, sự khác biệt đó rơi vào các kỳ nghỉ lễ hoặc do sự thay đổi thể chế.
Cơ quan phát hành: Viện Quản trị Cung cấp, nguyên là NAPM (Hiệp hội các Giám đốc phụ trách thu mua Quốc gia)
Thời điểm phát hành: 10:00 sáng (ET) của ngày làm việc đầu tiên trong tháng. Dữ liệu của tháng trước đó.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu không được xét duyệt

14. ISM Services Index – Chỉ số dịch vụ ISM
Định nghĩa: chỉ số này cũng được xem là chỉ số ISM không bao gồm sản xuất. ISM service dựa trên kết quả khảo sát 370 chuyên viên phụ trách mua hàng trong lĩnh vực công nghiệp bao gồm: tài chính, bảo hiểm, bất động sản, truyền thông và các ngành phục vụ công cộng. chỉ số này báo cáo hoạt động kinh doanh của khu vực dịch vụ.
Ý nghĩa: nếu chỉ số có giá trị trên 50% tức là các thành phần không thuộc khu vực sản xuất vật chất của nền kinh tế đang phát triển tốt, còn nếu dưới 50% thì các ngành này đang có dấu hiệu suy giảm.
Chỉ số này sẽ thay đổi vào các thời kỳ khác nhau trong năm, sự khác biệt xuất hiện trong các ngày lễ hay do có sự thay đổi thể chế.
ISM service chỉ vừa mới ra đời vào năm 1997 nên chưa được các nhà đầu tư quan tâm nhiều bằng chỉ số sản xuất ISM đã xuất hiện từ những năm 40.
Cơ quan phát hành: Viện Quản trị Cung cấp, nguyên là NAPM (Hiệp hội các Giám đốc phụ trách thu mua Quốc gia)
Thời điểm phát hành: 10:00 sáng (10h tối giờ Việt Nam)ngày làm việc thứ ba vủa tháng. Dữ liệu của tháng trước.
Mật độ phát hành: Hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu này không được xét duyệt.
Read more…

Sổ tay các chỉ số kinh tế cơ bản (phần 1)

23:19 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
cpi+economic“Nếu bạn không biết các khái niệm CPI, PMI hay ECI có nghĩa gì, mà bạn lại muốn bắt tay vào đầu tư thì cuốn sách này sẽ giúp bạn giải thích những khái niệm đó và một vài điều kiện khác giúp bạn tiếp cận những chỉ số , giúp bạn đầu tư hiệu quả.Cục Dự trữ Liên bang dùng những chỉ số kinh tế này để theo dõi tình hình lạm phát. Nếu chúng cho thấy áp lực của lạm phát, Cục dự trữ sẽ tăng mức lãi suất. Ngược lại, khi chúng cho thấy dấu hiệu giảm phát, thì mức lãi suất sẽ giảm.
Lãi suất là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế vì nó tác động đến việc từng cá nhân và doanh nghiệp mượn tiền để đấu tư. Một sự tăng lãi suất sẽ làm nền kinh tế suy yếu, trong khi giảm lãi suất sẽ gây nguy hiểm cho sự phát triển.
Mục đích của quyển sách này là để giải thích những thuật ngữ đơn giản, được hầu hết các nhà phân tích và đầu tư sử dụng. Lần tiếp theo khi bạn nghe những thuật ngữ này trên phương tiện thông tin hay những tạp chí tài chính, bạn có thể sử dụng những thông tin này để đánh giá hiệu quả tiềm ẩn của nền kinh tế và khả năng đầu tư của bạn.
Hãy đầu tư khôn ngoan.


Manuel Jesus-Backus”- Lịch kinh tế hàng ngày : Xem tại đây  
1. Beige Book
Định nghĩa : Mỗi Ngân hàng của Cục dự trữ Liên bang tập hợp những thông tin liên quan đến tình trạng của nền kinh tế hiện nay dựa trên những báo cáo của Giám đốc các Ngân hàng và chi nhánh và giới thiệu chúng với những doanh nhân lớn, những nhà kinh tế, những chuyên gia thị trường, và những nguồn lực khác. Quyển Beige Book này tóm tắt lại những thông tin theo từng lĩnh vực.Ý nghĩa: Cục dự trữ Liên bang sử dụng những báo cáo này, công với những chỉ số khác để quyết định mức lãi suất tại cuộc họp FOMC (Federal Open Market Committee). Cuộc họp này được tổ chức 2 tuần sau khi phát hành quyển Beige Book.
Nếu quyển Beige Book cho thấy tình trạng lạm phát tăng cao, thì Cục dự trữ sẽ tăng lãi suất. Và ngược lại, nếu Beige book cho thấy tình trạng giảm lạm phát, có thể lãi suất sẽ giảm
Cơ quan phát hành : Ban điều hành Dự trữ liên bang
Thời điểm phát hành: 2:00 chiều thứ tư trước cuộc họp FOCM
Mật độ : một năm 8 lần
Xét duyệt: dữ liệu không phải xét duyệt.

2. Chicago Purchasing Managers’ Index (PMI) – Chỉ số của các nhà quản lí mua hàng của Chicago
Định nghĩa: Nó dựa trên những cuộc điều tra hơn 200 nhà quản lí đánh giá sức mua trong nền công nghiệp sản xuất khu vực Chicago nơi phản ánh hoạt động phân phối của cả quốc gia.
Ý nghĩa: Dựa trên chỉ số của Cục dự trữ Philadenphia, có thể sự đoán được gần chính xác hơn chỉ số ISM, nó đang giảm hằng ngày theo tình hình kinh doanh. ISM là chỉ số hướng dẫn hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Cơ quan phát hành: Hiệp hội các nhà quản lý mua hàng Chicago
Thời điểm phát hành: Ngày giao dịch cuối của tháng lúc 10h sáng (10h tối giờ Việt Nam). Dữ liệu lấy trong tháng hiện tại
Mật độ : hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được kiểm tra mỗi năm một lần. Việc xét duyệt này cũng không quan trọng lắm


3. Consumer Confidence Index – Chỉ số niềm tin tiêu dùng
Định nghĩa: Một cuộc khào sát 5000 người tiêu dung về thái độ của họ đối với tình hình hiện tại và những mong muốn của họ trước tình trạng nền kinh tế đang tuột giảm.
Ý nghĩa: Báo cáo này đôi khi rất có ích trong việc dự đoán những thay đổi bất ngờ trong những mẫu khảo sát tiêu dùng. Và khi người tiêu dùng sử dụng 2/3 tài khoản của mình vào nền kinh tế, nó giúp chúng ta hiểu thấu được hướng đi của nền kinh tế đó. Tuy nhiên, chỉ khi những chì số đó thay đổi ít nhất 5 điểm thì mới nên được xem xét cẩn thận.
Cơ quan phát hành: Ban điều hành hội nghị
Thời điểm phát hành: 10h sáng ngày thứ 3 tuần cuối của tháng ( 10h tối giớ Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Dữ liệu được kiểm tra hàng tháng trên cơ sở phản hồi điều tra hoàn chỉnh. Những yếu tố thay đổi theo mùa phải được cập nhật định kỳ. Việc kiểm tra không quan trọng lắm.

4. Consumer Price Index (CPI) – Chỉ số giá tiêu dùng
Định nghĩa: Là một chỉ số dùng để tính toán sự thay đổi giá cả của một số mặt hàng đại diện của các sản phẩm và dịch vụ như thức ăn, năng lượng, dụng cụ nhà ở, quần áo, phương tiện giao thông, chăm sóc sức khỏe, giải trí và giáo dục. Nó cũng có thể được coi là chỉ số chi tiêu cho cuộc sống
Ý nghĩa: Việc theo dõi chỉ số CPI là rất quan trọng bao gồm giá cả của thức ăn và năng lượng sao cho nó bình ổn trong tháng. Nó được xem như là “chỉ số CPI chủ yếu” và cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về xu hướng lạm phát trong đó.
Tỉ lệ thay đổi chỉ số CPI nòng cốt này là một trong những thước đo lạm phát chính trong nền kinh tế Mỹ. Khi chỉ số CPI đó vượt xa mức mong đợi sẽ gây nên tình trạng lạm phát.
Cơ quan phát hành: Cục nghiên cứu của Bộ Lao động Mỹ
Thời điểm phát hành: khỏang ngày 13 hàng tháng, lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: Những yếu tố thay đổi theo mùa được cập nhật vào tháng Hai với những dữ liệu của tháng Một. Dữ liệu được xét duyệt có hiệu lực trong 5 năm. Tầm quan trọng của việc xét duyệt thấp.

5. Durable Goods Orders – Đơn đặt hàng dài hạn
Định nghĩa: tên đầy đủ là Báo cáo chuyên nghiệp về những đơn đặt hàng và gửi hàng dài hạn. Đây là một chỉ số của chính phủ để đo lường lượng đồng dollar trong các đơn đặt hàng, gửi hàng và những đơn hàng trống của những mặt hàng được đặt dài hạn.Đó là những mặt hàng mới hoặc thường được sử dụng trong cuộc sống đời thường từ 3 năm trở lên. Những phân tích thường loại trừ những đơn đặt hàng vận chuyển vì tính không ổn định của chúng.

Ý nghĩa: Báo cáo này cung cấp cho chúng ta thông tin về sức mạnh của những nhu cầu của thị trường Mỹ để sản xuất những sản phẩm dài hạn, từ nguồn trong nước cũng như nước ngoài. Khi chỉ số đó tăng, nó làm cho nhu cầu tăng lên, kết quả là tăng sản xuất và tăng công việc. Khi chỉ số giảm thì điều ngược lại sẽ xảy ra.
Đây cũng là một trong những chỉ số đầu tiên về nhu cầu tiêu dùng và kinh doanh trang thiết bị. Lượng tiêu dùng tăng sẽ làm góp phần làm giảm nguy cơ lạm phát.
Nguồn: Bộ phận điều tra của Bộ thương mại
Thời điểm phát hành: khoảng ngày 26 hàng tháng, lúc 8h30 (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được kiểm tra hằng tháng cho 2 tháng trước đó để phản ánh được nhiều thông tin hơn. Những yếu tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu hàng năm. Xét duyệt này có hiệu lực ít nhất 3 năm và rất quan trọng.

6. Employment Cost Index (ECI) – Chỉ số chi tiêu cho lao động

Định nghĩa: Chỉ số ECI được tạo ra để tính toán sự thay đổi trong chi tiêu cho lao động bao gồm tiền công, tiền lương cũng như lợi ích đạt được.
Ý nghĩa: Nó rất hữu ích trong việc đánh giá xu hướng tiền lương và rủi ro của lạm phát tiền lương. Nếu tình trạng lạm phát xảy ra thì lãi suất sẽ tăng và khi đó cố phiếu, trái phiếu sẽ giảm.
Cơ quan phát hành: Bộ lao động Mỹ, phòng điều tra lao động
Thời điểm phát hành: lúc 8h30 sáng (8h30 tối giờ Việt Nam) ngày giao dịch cuối cùng của tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10. Dữ liệu lấy từ quý trước.
Mật độ: 3 tháng 1 lần
Xét duyệt: Những nhân tố mới thay đổi theo mùa được giới thiệu hằng năm. Xét duyệt này có hiệu lực ít nhất 5 năm và rất quan trọng.

7. Employment Situation – Tình trạng việc làm
Định nghĩa: Báo cáo này liệt kê ra danh sách những công việc không phải là nông nghiệp và cơ quan chính phủ. Tỉ lệ thất nghiệp, trung bình mỗi giờ và số tiền kiếm được mỗi tuần và thời gian trung bình tuần làm việc cũng được liệt kê trong báo cáo này. Số liệu này gần nhất với những phân tích kinh tế vì mốc thời gian, tính chính xác và tầm quan trọng của nó như là một chỉ số trong hoạt động kinh tế. Vì vậy, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính trong suốt tháng.
Ý nghĩa : Đây là chỉ số trùng khớp đánh giá sự phát triển kinh tế, việc làm càng tăng nhiều thì tăng trưởng kinh tế càng tăng nhanh.
Tỉ lệ thất nghiệp tăng sẽ đi kèm với nền kinh tế đóng và giảm mức lãi suất. Ngược lại, tỉ lệ thất nghiệp giảm sẽ đi kèm với nền kinh tế mở và mức lãi suất tăng lên mức tiềm năng. Vấn đề là tiền lương sẽ tăng nếu tỉ lệ thất nghiệp quá thấp và khó tìm được nguồn nhân công. Nền kinh tế sẽ được xem như là đủ việc làm khi tỉ lệ thất nghiệp trong mức từ 5,5% – 6,0%
Nếu trung bình tiền lương tăng rõ rệt, nó có thể là một chỉ số lạm phát tiềm ẩn.
Khi trung bình tuần làm việc có xu hướng cao lên, nó dự đoán việc lao động sẽ gia tăng thêm.
Cơ quan phát hành: Cục điều tra lao động, Bộ lao động Mỹ
Thời điểm phát hành: 8h30 sáng thứ hai của tuần đầu tiên trong tháng (8h30 tối giờ Việt Nam). Dữ liệu lấy từ tháng trước.
Mật độ: hàng tháng
Xét duyệt: dữ liệu được xét duyệt hàng tháng cho tháng trước đó. Nó rất quan trọng và có 1 cuôc xét duyệt thường niên vào tháng 6.
Read more…

Phân tích cơ bản trong giao dịch GOLD - FOREX - Chứng khoán

23:18 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
Phân tích cơ bản là việc phân tích tình hình tài chính cũng như tình hình kinh doanh của công ty định đầu tư như dựa vào bảng cân đối tài khoản và bản báo cáo lợi tức của công ty để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển của công ty theo thời gian, nhờ đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng khoán. Giá trị là mục tiêu chính trong phân tích cơ bản. ...
 
Phân tích cơ bản trong giao dịch GOLD - FOREX - Chứng khoán
 
Phân tích cơ bản là việc phân tích tình hình tài chính cũng như tình hình kinh doanh của công ty định đầu tư như dựa vào bảng cân đối tài khoản và bản báo cáo lợi tức của công ty để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển của công ty theo thời gian, nhờ đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng khoán. Giá trị là mục tiêu chính trong phân tích cơ bản.
Một số nhà phân tích thường sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền mặt để xác định giá trị của công ty, trong khi đó một số người lại sử dụng tỷ số giá trên thu nhập (P/E)… Như vậy nếu việc phân tích kĩ thuật bám sát vào qui luật cung cầu về chứng khoán trên thị trường thì phân tích cơ bản lại đi sâu vào nội bộ của công ty phát hành ra chứng khoán đó. Việc phân tích cơ bản sẽ đánh giá một chứng khoán dưới giá trị hay trên giá trị hiện hành, và điều này sẽ khẳng định giá trị thực của một công ty có mối quan hệ mật thiết như thế nào với các đặc tính tài chính như: khả năng phát triển; những rủi ro mà công ty có thể gặp phải; dòng tiền mặt… Bất kỳ một sự chệch hướng nào so với giá trị thực cũng là dấu hiệu cho thấy cổ phiếu đó đang ở dưới hoặc vượt quá giá trị thực. Chính vì vậy nhà phân tích thường coi đó là kim chỉ nam cho quyết định đầu tư trong tương lai. Ví dụ một chiến lược đầu tư dài hạn bao giờ cũng phải bao quát đủ các yếu tố của phân tích cơ bản như:

* Mối quan hệ giữa giá trị cổ phiếu hiện hành và các yếu tố tài chính là có thể đo lường được.
* Mối quan hệ này ổn định trong một khoảng thời gian đủ dài.
* Các sai lệch của mối quan hệ có được điều chỉnh lại vào thời điểm thích hợp.

Ngoài ra rất nhiều nhà đầu tư còn dùng phương pháp phân tích cơ bản để chọn mua những chứng khoán có triển vọng tốt nhưng đang bị thị trường đánh giá thấp, tức là một cách thức đầu tư giá trị.

Nếu có quyết định chơi chứng khoán thì hãy là một nhà đầu tư thông minh và cẩn trọng. Hãy quyết định dựa trên cơ sở thông tin rút ra không chỉ từ phân tích kỹ thuật (về cung và cầu), mà chủ yếu phải từ phân tích cơ bản (về năng lực và hoạt động của các công ty). Phân tích cơ bản nhằm tính toán về thị trường, doanh số, các chỉ số tài chính, tình hình pháp lý và hệ thống quản trị của doanh nghiệp nhằm tìm ra các doanh nghiệp xứng đáng đầu tư. Phân tích kỹ thuật nhằm tìm ra thời điểm đúng lúc để tiến hành giao dịch. Để đổ tiền vào một nơi sinh ra lợi nhuận, nhà đầu tư cần phải biết cả về phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật bởi lẽ có tính toán được giá trị của cổ phiếu chính xác đến đâu mà không biết chọn đúng thời điểm đầu tư thì phân tích cũng trở thành vô nghĩa. Hiện nay có nhiều nhà đầu tư không cần biết đến các công cụ trên nhưng vẫn tiến hành đầu tư theo kiểu may rủi là rất nguy hiểm. Trong trường hợp xấu, chính họ là những người làm sụp đổ thị trường. Để thị trường có thể phát triển lành mạnh các nhà đầu tư cần phải có kiến thức, kinh nghiệm về thị trường chứng khoán bằng cách tập đầu tư các khoản tiền nhỏ trước vào các cổ phiếu có tính thanh khoản cao trước và theo dõi thị trường thật kỹ trước khi đầu tư các khoản tiền lớn.

Khi phân tích cơ bản trở thành kiến thức thông dụng của mọi nhà đầu tư thì thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả hơn: có sự tham gia liên tục của các tổ chức đầu tư khiến giá cổ phiếu niêm yết hợp lý hơn; thông tin từ các công ty niêm yết đã bắt đầu tạo ra phản ứng tức thời đến giá cổ phiếu; nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các thông tin hàng ngày trên thị trường. Và khi phân tích cơ bản đã là cơ sở chính cho diễn biến giá cả thì “sân chơi” chứng khoán sẽ trở thành nơi đầu tư của những nhà đầu tư tài chính thực thụ.
Read more…

Hoạt động "carry trade"

23:17 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
Carry trade là gì? 
 
Carry trade là việc vay hoặc mua các công cụ tài chính với lãi suất thấp, sau đó dùng nó để mua các công cụ tài chính có lãi suất cao hơn. Khi bạn trả lãi suất thấp hơn cho công cụ tài chính bạn bán hay thuê, bạn có thể thu được mức lãi suất cao hơn với công cụ tài chính bạn mua. Do đó, lợi nhuận mà bạn thu được từ họat động này xuất phát từ mức chênh lệch lãi suất.


Ví dụ như, bạn vay ngân hàng $10,000, lãi suất mỗi năm 1%. Với số tiền này, bạn mua trái phiếu với lãi suất 5%. Vậy lợi nhuận bạn thu được sẽ là 4%/năm, đó chính là mức chênh lệch giữa 2 lãi suất.

Carry trade hoạt động như thế nào trong thị trường hối đoái?
 
Trong thị trường hối đoái, các loại tiền tệ được trao đổi theo các cặp (ví dụ như, khi bạn mua cặp USD/CHF, nghĩa là bạn cùng lúc mua USD và bán france Thụy Sĩ). Tương tự như vậy, bạn trả lãi suất cho đồng tiền bạn bán và thu lãi suất từ đồng tiền bạn mua.

Điều khiến carry trade đặc biệt trong thị trường tỷ giá là quá trình trả tiền lời diễn ra mỗi ngày giao dịch tùy theo giao dịch của bạn.

Các nhà môi giới đóng và mở các giao dịch, sau đó họ ghi nợ theo chênh lệch lãi suất qua đêm giữa 2 đồng tiền.
Phương pháp đòn bẩy từ các nhà môi giới đã giúp các hoạt động carry trade trở nên phổ biến trong thị trường hối đoái. Giao dịch hối đoái hoàn toàn dựa trên ký quỹ, nghĩa là bạn chỉ cần phải tạo ra lượng giao dịch nhỏ, sau đó nhà môi giới sẽ tạo ra phần còn lại.

Ví dụ: Hoàng có $10,000. Nếu gửi ngân hàng, anh ta có thể thu được lãi suất 1%/năm. Nếu đầu tư vào thị trường hối đoái, trước tiên Hoàng lập một tài khoản thực và gửi $10,000 vào đó, sau đó Hoàng tìm một cặp tỷ giá có chênh lệch lãi suất là 5%/năm. Anh ta mua $100,000 giá trị của cặp tỷ giá. Do nhà môi giới chỉ yêu cầu kí quỹ 1% giao dịch, họ giữ $1,000. Do đó, Hoàng hiện tại nắm giữ cặp tiền tệ có giá trị $100,000 với lãi suất 5%/năm.
Nếu Hoàng không làm gì với tài khoản này trong vòng 1 năm? Có 3 khả năng xảy ra:

  • Giao dịch mất giá trị. Cặp tỷ giá mà Hoàng mua mất giá trị mạnh. Nếu như thua lỗ làm tài khoản giảm xuống mức kí quỹ, giao dịch bị đóng và tài khoản chỉ còn đúng khoản kí quỹ $1,000.
  • Cặp tỷ giá này kết thúc với lãi suất không đổi vào cuối năm. Trong trường hợp này, Hoàng không thu được hay mất đi bất cứ giá trị nào của giao dịch, song anh ta thu được lãi suất 5% từ $100,000. Tức là chỉ tính riêng tiền lĩa Hoàng thu được $5,000 từ $10,000 ban đầu.
  • Giao dịch tăng giá trị. Cặp tỷ giá mà Hoàng chọn liên tục tăng. Do đó, anh ta sẽ không những kiếm được $5000 từ lợi tức, mà còn có thể có thêm các khoản lời khác.

Do có mức đòn bẩy 100:1, Hoàng có khả năng kiếm được khoản lãi suất 50%/năm từ số tiền $10,000 ban đầu.

Rủi ro trong carry trade 
 
Như trong ví dụ trước, rủi ro lớn nhất của Hoàng là mất đi $9000. Giao dịch của anh ta sẽ tự động bị đóng khi thua lỗ đạt tới $9000.

Khi thực hiện một giao dịch, bạn vẫn có thể giới hạn mức thua lỗ giống như các laọi giao dịch thông thường khác. Ví dụ như, khi Hoàng muốn giới hạn rủi ro ở $1000, anh ta có thể đặt lệnh dừng ở bất cứ mức giá nào mà thua lỗ tại đó là $1000.

Tiêu chuẩn của carry trade
 
Muốn tìm thấy cặp tỷ giá phù hợp để carry trade, bạn cần chú ý đến 2 điểm

  • Tìm cặp tỷ giá có mức chênh lệch lãi suất cao
  • Tìm cặp tỷ giá đang có xu hướng đi lên – tức là đồng tiền bạn mua đang tăng giá trị so với đồng tiền bạn bán.

Ví dụ:

Tới thời điểm 11/01/2006, BoJ đang duy trì lãi suất là 0.25%, trong khi, trong số các nước có đồng tiền mạnh, BoE có lãi suất khá cao, khoảng 4.75%. Nhiều nhà đầu tư đã để ý đến cặp tỷ giá này. Từ cuối năm 2000 đến giữa năm 2006, cặp tỷ giá này đã tăng từ 150 lên 223, tương đương với 7300 điểm. Nếu kết hợp yếu tố này với mức chênh lệch tỷ giá của 2 đồng tiền, cặp tỷ giá này đã trở thành điểm đầu tư dài hạn cho nhiều nhà giao dịch để tránh những lên xuống thất thường trong thị trường tiền tệ.

Dĩ nhiên, các yếu tố chính trị và kinh tế đang hàng ngày thay đổi thế giới. Lãi suất và chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền cũng sẽ thay đổi khiến cho carry trade JPY không còn hấp dẫn với nhà đầu tư.

Kết luận
 
Trong thị trường forex, có một cách kiếm lời mà bạn không phải mua rẻ bán đắt, điều khó có thể thực hiện trong điều kiện hiện nay. Với một chiến lược giao dịch đúng đắn, bạn có thể tăng tài khoản của mình lên một khoản không nhỏ thồng qua hoạt động carry trade.
Read more…

Những yếu tố ảnh hưởng đến giá Vàng.

23:16 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
Trước hết, vàng là một loại hàng hóa, do đó dao động giá của vàng phải được xem xét dựa trên các yếu tố tác động của cung và cầu. Nguồn cung vàng trên thế giới đến từ các quốc gia có trữ lượng vàng lớn và sản lượng xuất khẩu có tầm ảnh hưởng đến thị trường như Nam Phi, Mỹ, Canada, Nga, Úc...
Xét về nhu cầu vàng thì phải thấy rằng, toàn thế giới đều muốn có thứ kim loại này và tùy vào mục đích sử dụng mà có những nhu cầu khác nhau: phục vụ cho hoạt động chế tác trang sức, tích lũy, đầu tư, thanh toán…
Tùy vào từng thời điểm mà nhu cầu tăng cao trong những thời kỳ khác nhau và đôi khi xảy ra cùng lúc, do đó tác động mạnh đến cầu vàng trong cùng thời điểm.

Hiện nay, USD được xem là đồng tiền mang tính thanh toán toàn cầu, do đó theo thông lệ, các loại hàng hóa hay ngoại tệ khi giao dịch trên thế giới thường được định giá theo USD và vàng cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy, bất cứ tác động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng USD thì cũng tác động trực tiếp đến biến động giá cả của vàng.
Khi xem xét giá trị đồng USD, người ta thường đánh giá thông qua nền kinh tế Mỹ và những yếu tố chính được xem là “chỉ báo” phản ánh sức mạnh hay suy yếu của nền kinh tế Mỹ, đó là tình trạng thị trường nhà ở, thị trường lao động, thị trường tín dụng và thị trường vốn.
Ngoài ra, một chỉ báo không thể không kể đến khi đánh giá giá trị đồng USD, đó là quyết định về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Bất kỳ quyết định nào ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm, giữ nguyên lãi suất của Mỹ do FED công bố qua các kỳ họp của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) đều tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến giá trị đồng USD.
Dù quyết định tăng/giảm lãi suất của FED với mục đích kích thích hay kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế hay nhằm giải quyết các vấn đề khác thì trong ngắn hạn hay tức thời, quyết định tăng/giảm lãi suất của Mỹ cũng sẽ làm tăng/giảm giá trị của đồng USD do trong ngắn hạn hay tức thời, giá trị của đồng USD được nâng lên/hạ xuống so với các ngoại tệ khác trong mối tương quan so sánh.
Khi giá trị của đồng USD dao động, giá trị các loại hàng hóa được định giá bằng USD cũng dao động tức thời theo quyết định của FED. Ví dụ, trước khi FED cắt giảm lãi suất cơ bản, 1 ounce vàng có giá là 1000 USD nhưng khi FED cắt giảm lãi suất thì vàng “vô tình” bị định giá thấp do USD mất giá nên thị trường sẽ tự động điều chỉnh bằng cách nâng giá vàng lên, trong trường hợp này 1 ounce vàng sẽ có giá là 1050 USD....



Như vậy ý Chúng tôi muốn nói là vàng bị tác động chính bởi USD, mà USD được quyết định bởi FED mà các quyết định bởi FED được dựa trên các tin kinh tế vĩ mô của Mỹ. Như vậy: Những tin Vĩ Mô nào cũng Mỹ ảnh hưởng mạnh nhất đến Vàng???

1. Tin Bảng lương phi nông nghiệp Mỹ và Tin Tỷ lệ thất nghiệp.
* Ý nghĩa bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ
Đây là một trong những bản báo cáo được mong đợi nhất của Mỹ, Non-farm payrolls là một bản báo cáo kịp thời về bức tranh của thị trường việc làm ở Mỹ : gia tăng, tụt giảm, số giờ làm việc, số lương thưởng ... Những tư liệu trong bản báo cáo được thu thập từ 2 cuộc khảo sát là Household Surveys và Establishment ( payroll) Survey ( Báo cáo theo hộ gia đình và báo cáo theo bảng lương).

Trong đó Establishment Survey được ưa chuộng hơn vì bản báo cáo này đánh giá tình trạng của các doanh nghiệp chứ ko chỉ gói gọn trong các hộ gia đình. Bản báo cáo có những chỉ số đầy ý nghĩa như : Change in nonfarm payrolls, Unemployment, Manufacturing Payrolls, và Average Hourly Earnings.

Trong quá trình khai thác cũng như phân tích về bản báo cáo mình sẽ có cơ hội để mở ra trước mắt các bạn nhiều hơn nữa những news và yếu tố liên quan đến tình trạng lao động.

Nonfarm Payrolls ( NFP)
Nonfarm payrolls (NFP) là một báo cáo về tình hình kinh tế của Mỹ được thông báo hàng tháng.

Tên của bản báo cáo được biên soạn để sử dụng cho những công ty về sản xuất, xây dựng, và các công ty chế tạo sản phẩm. Ban Thống Kê Lao động của bộ Lao động cho ra những tài liệu sơ bộ của cuộc khảo sát dành cho tháng trước đó. Tin ra vào thời điểm 8h30 ET thức đầu tiên của hàng tháng, hoặc theo Ban này bản báo cáo sẽ được đưa ra vào thứ 6 thứ 3 trong tháng sau khi có kết luận về tài liệu của tuần

Các con số về NFP được sử dụng để đại diện cho số công việc gia tăng hay mất đi trong kinh tế trong tháng gần nhất, ko bao gồm những công việc liên quan đến ngành công nghiệp trồng trọt. Vì ngành này thường có tính chất thuê nhân công theo mùa mà điều này sẽ làm cho chỉ số xung quanh thời điểm gặt ko còn chính xác nữa ( vì các nông trang thường tăng thêm số công nhân và sau đó thì chỉ số vào mùa gặt mới được công bố). Bản báo cáo này cũng cho biết về số giờ làm việc trung bình hàng tuần và số thu nhập kiếm được bình theo tuần của tất cả những công nhân thuộc những ngành có trong báo cáo.

NFP bao gồm các thông tin sau :
- Sự thay đổi về chỉ số NFP
- Tỉ lệ thất nghiệp
- Thay đổi về chỉ số Manufacturing Payrolls : chỉ số Payrolls dành riêng cho các ngành sản xuất.
- Thu nhập trung bình tính theo giờ
- Số giờ làm việc trung bình tính theo tuần.

Nói chung báo cáo phản ánh khoảng 80% tổng số công nhân làm việc để tăng sản lượng GDP của Mỹ và đưowjc sử dụng để hỗ trợ các chính khách và các nhà kinh tế đưa ra những chính xác mới để quyết định hiện trạng của kinh tế và phỏng đoán tương lai.

Ý nghĩa của NFP đối với nền kinh tế:

Nói chung, khi chỉ số lao động gia tăng có nghĩa là các công ty đang phát triển và cần tuyển dụng nhân lực và điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhiều người sẽ có việc làm và có tiền để chi tiêu vào các sản phẩm hay dịch vụ giúp kích thích phát triển. Điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng trong trường hợp NFP hạ.

Ý nghĩa của Nonfarm với thị trường tài chính:

Trong khi tổng số việc làm tăng lên hay giảm đi đối với nền kinh tế là một kim chỉ nam rất quan trọng cho hiện trạng kinh tế thì báo cáo này lãi có những thông kê mà hoàn toàn có ảnh hưởng đến thị trường tài chính:
- Chỉ số thất nghiệp đối với kinh tế như một tỷ lệ của toàn bộ lực lượng lao động. Đây là một phần quan trọng của bản báo cáo vì số người thất nghiệp là một dấu hiệu của tổng thể kinh tế, và đây là một con số được ngân hàng Liên Bang theo dõi rất kĩ vì khi chỉ số này hạ xuống mức qúa thấp ( thường là dứới 5%) thì lạm phát sẽ bắt đầu hình thành vì các doanh nghiệp sẽ phải trả nhiều tiền hơn để thuê những thợ lành nghề và việc giá thành sản phẩm gia tăng cũng là điều đương nhiên.

- Chỉ ra bộ phận nào có sự tăng hay giảm về công việc: Bản baó cáo có thể đưa ra sự cảnh báo cho những trader về mảng kinh tế nào có thể bung nổ phát triển.

- Thu nhập trung bình hàng giờ : Đây là một yếu tố quan trọng vì nếu cùng một lượng nhân công như nhau nhưng lại kiếm nhiều hơn hay ít hơn cho một khối lượng công việc , điều này về căn bản là nói lên việc cần phải tăng hay giảm nhân công cho khối lượng công việc đó.

- Dùng để xem lại chỉ số của lần ra tin NFP trước đó: Một yếu tố quan trọng khác của báo cáo là có thể gây ra những biến động trong thị trường vì traders tự lên khung những chiều hướng phát triển của news dựa vào chỉ số cũ.

2. Tin Lạm phát CPI
3. Tin Nhà đất Mỹ
4. Tin GDP
5. Tin niềm tin tiêu dùng hay tin khảo sát niềm tin
6. Thông tin sản xuất và buôn bán lẻ của Mỹ

===> Nếu 6 thông tin trên Tốt ===> chứng tỏ kinh tế Mỹ dần hồi phục ===> tạo công ăn việc làm cho người dân Mỹ ===> Tỷ lệ thất nghiệp giảm ===> tác động đến chính sách lãi suất Mỹ ===> làm cho USD tăng giá ===> làm cho Vàng giảm.

Do đó, yếu tố thứ 7 chính là FED. Sẽ tác động rất mạnh lên Vàng. Nên mọi lời phát biểu của FED rất đáng lưu ý vì nó sẽ tác động rất mạnh lên vàng.
Song song đó, ngoài những yếu tố thông tin kinh tế Mỹ nêu trên tác động mạnh đến Vàng còn có những yếu tố sau đây!
- Chính sách lãi suất của các nước lớn khác so với Mỹ như Trung quốc, Úc, Canada, Châu Âu....
- Tình hình nợ công của các nước lớn khác, điển hình là Châu Âu.
- Căng thẳng chính trị giữa các nước , làm phức tạp thêm tình hình, gây nguy cơ chiến tranh
- Nguồn cung của Vàng và tâm lí traders

*** Khi Vàng tăng hay giảm mạnh đều có lí do và nguyên nhân, do đó chúng ta phải tự mình đặt ra câu hỏi là " TẠI SAO VÀNG GIẢM MẠNH HAY VÀNG TĂNG MẠNH?", " Và nếu lí do đó được duy trì thì liệu vàng có còn tiếp tục tăng hay nếu nhân tố đó mất đi thì Vàng sẽ thế nào?". Chúng ta phải tìn ra được nguyên nhân và lí do khiến Vàng tăng hay giảm mạnh để từ đó sẽ có câu trả lời chính xác.

Ví dụ cụ thể: Vàng đang tăng mạnh lên $1,400 do những nguyên nhân sau: LSCB Mỹ và 1 số nước như kv Châu Âu thấp ==> lạm phát, chính sách "tung" tiền ra thị trường ===> làm Tiền mất giá ==> vàng trở thành công cụ thay thế, tình hình nợ công châu Âu, kinh tế Mỹ còn yếu thông qua tỷ lệ thất nghiệp cao.

Như vậy nếu các yếu tố trên vẫn còn bền vững thì Vàng sẽ tiếp tục tăng, và ngược lại Vàng phải giảm mạnh do vai trò phònhg thủ đầu tự thay thế của vàng bị mất trước tình hình kinh tế phát triển ===> LSCB được tăng ===> Tiền có gái trị hơn ===> Vàng phải giảm.

Và yếu tố nào giúp ta nhận ra tình hình kinh tế Mỹ hay thế giới đã ổn định và khả quan hay chưa? Đó là các thông tin kinh tế Vĩ Mô của Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Anh, Canada, Úc... công bố hàng tuần.

Tóm lại:
Vàng bi tác động bở các nhân tố:
1. Tin kinh tế vĩ mô Mỹ (tin lao động việc làm, tin nhà đất, tin sản xuất, tin GDP, Tin niềm tin tiêu dùng và đặc biệt là tin FED)
2. Ảnh hưởng bởi tình hình nợ công các nước
3. Chính sách tiền tệ của các nước lớn khác trên thế gới
4. Căng thẳng chính trị
5. Nguồn cung và cái chính là tâm lí traders.

Dưới đây, Chúng tôi xin trình bày thêm các nhân tố tác động đến đồng USD. Vì thông qua đồng USD mạnh hay yếu sẽ tác động đến Vàng tăng hay giảm
Các nhân tố ảnh hưởng đến đồng USD

Sơ nét một số các chỉ số, thông tin kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng chính của Mỹ thường được sử dụng trong phân tích

a) Thông tin kinh tế
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Bất cứ một quốc gia nào cũng muốn duy trì một nền kinh tế tăng trưởng cùng với sự ổn định tiền tệ và công ăn việc làm cho dân cư mà GDP là một trong những tín hiệu cụ thể của những nỗ lực của chính phủ. Vì thế việc nghiên cứu khuynh hướng của sự tăng trưởng GDP, tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ lệ lạm phát giúp chính phủ có thể thay đổi chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ví dụ khi có thông tin GDP của nước nào đó tăng lên thì đó là tin tốt cho đồng tiền nước đó…

- Chỉ số giá cả tiêu dùng(CPI): Là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng của một quốc gia. Vì vậy sự gia tăng nhanh hoặc giảm nhanh của lạm phát là một dấu hiệu cho thấy rất có khả năng có một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ.

- Sản lượng công nghiệp (Industrial Production): Vì giá trị của ngành công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong GDP nên một sự thay đổi nhỏ của chỉ số này cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tốc độ tăng trưởng GDP và vì thế sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia.

- Số lượng hàng hóa bán lẻ (Retail sales): Bằng việc theo dõi số lượng hàng hóa bán lẻ trong một thời gian nhất định chính phủ có thể đánh giá được một cách gần chính xác sự tăng trưởng của việc tiêu dùng cá nhân của dân cư, mà việc tiêu dùng của xã hội đóng góp rất lớn vào giá trị của GDP.

- Hàng tồn kho (Inventories): Tỉ lệ hàng tồn kho là một yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ nếu tỉ lệ tồn kho tăng cao tức là sức mua trong nền kinh tế đang có chiều hướng giảm sút sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế và ngược lại.

……….

- Ngoài ra trên thị trường còn có rất nhiều các chỉ số quan trong khác mà bất cứ một dealer nào cũng quan tâm như: cung tiền M2, chỉ số thất nghiệp, doanh số nhà mới khởi công, doanh số bán nhà hiện có, đơn hàng nhà máy, đơn hàng hoá lâu bền, chi tiêu tiêu dùng, thu nhập cá nhân, bảng lương phi nông nghiệp, chỉ số ISM ngành sản xuất và dịch vụ, cán cân thương mại…

b)- FED-FOMC- Fed fund Rate & Discuont rate
Federal Reserve Bank ( FED): Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Được toàn quyền thiết lập chính sách tiền tệ của Mỹ với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. chính sách chính của FED được thể hiện ở hoạt động thị trường mở, lãi suất chiết khấu ( Discuont rate), lãi suất mục tiêu (Fed Fund rate).

Federal Open Market Committee ( FOMC): ủy ban điều hành thị trường mở, chịu trách nhiệm ra quyết định điều hành chính sách tiền tệ, quan trọng là công bố lãi suất cơ bản 8 lần/ năm. 12 thành viên của hội đồng bao gồm 7 thành viên của hội đồng thống đốc ( Board of Governors), chủ tịch của ngân hàng dự trữ New York ( Federal Reserve Bank of New York), và 4 thành viên còn lại được luân phiên giữa chủ tịch 11 Ngân hàng dự trữ còn lại.

Fed fund Rate (lãi suất mục tiêu, lãi suất cơ bản của đồng USD): đây là mức lãi suất quan trọng nhất, nó là mức lãi suất mà các tổ chức tài chính sử dụng cho những khoản vay nợ hay gửi tiền qua đêm. Thông thường khi có sự thay đổi trong mức lãi suất này ám chỉ dấu hiệu sự thay đổi trong chính sách tiện tệ của Fed. Những thông báo liên quan tới vấn đề này gây ảnh hưởng rất lớn lên thị trường chứng khoán, trái phiếu, thị trường ngoại hối.

Discuont rate (lãi suất chiết khấu): lãi suất mà Fed áp dụng cho ngân hàng thương mại khi vay lại Fed, sự thay đổi trong mức lãi suất này cũng ám chỉ đến chính sách tiền tệ của Fed. Thông thường discount rate thấp hơn Fed Fund rate.

c) Trái phiếu và lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD
-10 year treasury note: lãi suất trái phiếu 10 năm.
Sau khi phát hành trái phiếu kỳ hạn 30 năm chấm dứt vào tháng 10/2001. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm trở thành tiêu chuẩn cho mức lãi suất dài hạn. Đó là dấu hiệu quan trọng nhất trên thị trường về tín hiệu lạm phát. Thông thường thị trường dùng mức lợi tức ( hơn là giá) để xác định mức độ trái phiếu. Giá trái phiếu có tỷ lệ nghịch chiều với tỷ lệ lãi suất.

Không có mối quan hệ rõ ràng giữa trái phiếu dài hạn và đồng USD tuy nhiên có thể sử dụng ý tưởng sau: một sự sụt giảm trong giá trị của trái phiếu ( do lợi tức tăng) thông thường do tác động của lạm phát tăng có thể gây áp lực lên USD.

- Lợi tức 10 năm trái phiếu: thị trường trái phiếu ngoại hối thường đánh giá sự khác biệt giữa lợi tức trái phiếu kỳ hạn 10 năm với các loại trái phiếu cùng kỳ hạn của các nước khác như Đức ( German 10 year bund), Nhật (10 year JGB), Anh (10 year gilt), sự chênh lệnh có thể tác động đến biến động tỷ giá, thường thì một sự gia tăng của lợi tức 10 năm của trái phiếu Mỹ làm cho đồng USD tăng giá.

- 3 month Eurodollar Deposits: đây là mức lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD tại các ngân hàng ngoài biên giới nước Mỹ.

Thông thường được sử dụng như một tiêu chuẩn trong việc xác định sự chênh lệch lãi suất từ đó có thể dự báo biến động tỷ giá. Ví dụ như trường hợp tỷ giá USDJPY, nếu như lãi suất chênh lệch giữa eursdollar và euryen càng lớn thì khả năng tỷ giá USDJPY bị tác động theo xu hướng tăng lên.

d) Các nhà chính trị hay các lãnh đạo kinh tế
Các thành viên chính phủ hay những người đứng đầu các ngân hàng trung ương, chính những người này có thể gây ảnh hưởng tới giá trị của một loại tiền tệ nào đó qua những gì họ noí, những gì họ làm. Các chức vụ quan trọng như: tổng thống, thủ tướng, thống đốc hay chủ tịch các ngân hàng… luôn có sự thay đổi theo nhiệm kỳ hay có lý do khác. Nhưng chúng luôn được quan tâm chặt chẽ từ các nhà đầu tư, dù ai ngồi vào các vị trí đó thì những quyết sách của họ đều rất quan trọng và đều có những thay đổi, những tác động nhất định tới thị trường ngoại hối.

Ở NHTW, đối với Mỹ là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) thì khi tỷ giá biến động theo một chiều hướng bất lợi tác động xấu tới nền kinh tế, NHTW có thể can thiệp vào nhằm ổn định tỷ giá và đưa tỷ giá trở về tầm kiểm soát theo hướng có lợi cho chính sách tiền tệ. Việc can thiệp này trong những năm gần đây thường thực hiện bằng hai cách: can thiệp miệng ( verbal intervention) hoặc can thiệp trực tiếp vào thị trường.

e) Những nhân tố chính trị ( ví dụ điển hình)
Những nhân tố chính trị đôi khi có thể tác động và gây ra ảnh hưởng lớn đến biến động tỷ giá. Nó làm tỷ giá biến động khá nhanh và mạnh tùy theo từng trường hợp có thể kéo dài hay chấm dứt nhanh chóng.
- Việc Anh gia nhập EU.
- Việc các nước Châu Âu không ký hiệp ước Châu Âu.
- Việc bầu cử tổng thống Mỹ.
- Việc ông Sarkozy thắng cử tổng thống Pháp.
- Căng thẳng Trung Đông, Bắc Triều Tiên…
- Vấn đề định giá lại CNY.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên thì những nguyên nhân sau làm biến động tỷ giá như:

+ Sự gia tăng đáng kể các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội sinh lới khi tỷ giá biến động. đối với các đối tượng này thì tỷ giá biến động theo hướng nào là không quan trọng cái chính họ cần là thị trường phải biến động.
+ Các luồng vốn di chuyển nhằm thanh toán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia.Các nhà đi vay cũng có xu hướng tìm kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau nhằm giảm chi phí vay, các quỹ đầu tư cũng di chuyển nguồn vốn vào các đồng tiền có lợi nhuận cao nhất. Cộng thêm các biến động về lãi suất càng làm các quá trình trên diễn ra mạnh mẽ.

Các nhà đầu cơ trên thị trường bao gồm:
1.Nhà đầu cơ hay leveraged investor (Hedge fund).
2.Định chề đầu tư (pension fund, thường thông qua các công ty quản lý tài sản, investmen bank)
3.Các công ty
4.Các loại khác (bao gồm cả các NHTW)
+ Tỷ giá chéo: tỷ giá USD và một đồng tiền khác đôi khi bị ảnh hưởng bởi các cặp tỷ giá khác. Ví dụ như một sự gia tăng nhanh chóng của đồng JPY so với EUR (EURJPY) tạo nên một sự mất giá của EUR, bao gồm luôn cả sự sụt giảm EURUSD.
+ Tác động của nhân tố mang tính chu kỳ: Đây là các hoạt động ngoại có tính chất lặp lại hàng năm trong những thời điểm nhất định, có thể gây ra những biến động tỷ giá mà ta có thể định trước, tuy nhiên quá trình này không phải lúc nào cũng xảy ra giống nhau mà có thể có sự điều chỉnh biến động khác đi.
+ Tác động của những nhân tố khác: Những nhân tố khác, ít xảy ra thường xuyên cũng có tác động lớn tới biến động tỷ giá như các kỳ họp của G7, IMF, hội nghị kinh tế các nước, các khu vực … các thông tin mua bán, sát nhập các công ty có giá trị trên hàng tỷ USD.
Read more…

Các nhân tố ảnh hưởng đến đồng USD

23:14 |
Read more: http://kenhphanmemviet.blogspot.com/2014/01/them-nut-chia-se-mang-xa-hoi-duoi-tieu.html#ixzz2uXZeQem0
Sơ nét một số các chỉ số, thông tin kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng chính của Mỹ thường được sử dụng trong phân tích

a) Thông tin kinh tế

- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Bất cứ một quốc gia nào cũng muốn duy trì một nền kinh tế tăng trưởng cùng với sự ổn định tiền tệ và công ăn việc làm cho dân cư mà GDP là một trong những tín hiệu cụ thể của những nỗ lực của chính phủ. Vì thế việc nghiên cứu khuynh hướng của sự tăng trưởng GDP, tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ lệ lạm phát giúp chính phủ có thể thay đổi chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ví dụ khi có thông tin GDP của nước nào đó tăng lên thì đó là tin tốt cho đồng tiền nước đó…


- Chỉ số giá cả tiêu dùng(CPI): Là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng của một quốc gia. Vì vậy sự gia tăng nhanh hoặc giảm nhanh của lạm phát là một dấu hiệu cho thấy rất có khả năng có một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ.


- Sản lượng công nghiệp (Industrial Production): Vì giá trị của ngành công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong GDP nên một sự thay đổi nhỏ của chỉ số này cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tốc độ tăng trưởng GDP và vì thế sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia.


- Số lượng hàng hóa bán lẻ (Retail sales): Bằng việc theo dõi số lượng hàng hóa bán lẻ trong một thời gian nhất định chính phủ có thể đánh giá được một cách gần chính xác sự tăng trưởng của việc tiêu dùng cá nhân của dân cư, mà việc tiêu dùng của xã hội đóng góp rất lớn vào giá trị của GDP.


- Hàng tồn kho (Inventories): Tỉ lệ hàng tồn kho là một yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ nếu tỉ lệ tồn kho tăng cao tức là sức mua trong nền kinh tế đang có chiều hướng giảm sút sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế và ngược lại.


……….


- Ngoài ra trên thị trường còn có rất nhiều các chỉ số quan trong khác mà bất cứ một dealer nào cũng quan tâm như: cung tiền M2, chỉ số thất nghiệp, doanh số nhà mới khởi công, doanh số bán nhà hiện có, đơn hàng nhà máy, đơn hàng hoá lâu bền, chi tiêu tiêu dùng, thu nhập cá nhân, bảng lương phi nông nghiệp, chỉ số ISM ngành sản xuất và dịch vụ, cán cân thương mại…


b)- FED-FOMC- Fed fund Rate & Discuont rate


Federal Reserve Bank ( FED): Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Được toàn quyền thiết lập chính sách tiền tệ của Mỹ với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. chính sách chính của FED được thể hiện ở hoạt động thị trường mở, lãi suất chiết khấu ( Discuont rate), lãi suất mục tiêu (Fed Fund rate).


Federal Open Market Committee ( FOMC): ủy ban điều hành thị trường mở, chịu trách nhiệm ra quyết định điều hành chính sách tiền tệ, quan trọng là công bố lãi suất cơ bản 8 lần/ năm. 12 thành viên của hội đồng bao gồm 7 thành viên của hội đồng thống đốc ( Board of Governors), chủ tịch của ngân hàng dự trữ New York ( Federal Reserve Bank of New York), và 4 thành viên còn lại được luân phiên giữa chủ tịch 11 Ngân hàng dự trữ còn lại.


Fed fund Rate (lãi suất mục tiêu, lãi suất cơ bản của đồng USD): đây là mức lãi suất quan trọng nhất, nó là mức lãi suất mà các tổ chức tài chính sử dụng cho những khoản vay nợ hay gửi tiền qua đêm. Thông thường khi có sự thay đổi trong mức lãi suất này ám chỉ dấu hiệu sự thay đổi trong chính sách tiện tệ của Fed. Những thông báo liên quan tới vấn đề này gây ảnh hưởng rất lớn lên thị trường chứng khoán, trái phiếu, thị trường ngoại hối.


Discuont rate (lãi suất chiết khấu): lãi suất mà Fed áp dụng cho ngân hàng thương mại khi vay lại Fed, sự thay đổi trong mức lãi suất này cũng ám chỉ đến chính sách tiền tệ của Fed. Thông thường discount rate thấp hơn Fed Fund rate.


c) Trái phiếu và lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD


-10 year treasury note: lãi suất trái phiếu 10 năm.

Sau khi phát hành trái phiếu kỳ hạn 30 năm chấm dứt vào tháng 10/2001. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm trở thành tiêu chuẩn cho mức lãi suất dài hạn. Đó là dấu hiệu quan trọng nhất trên thị trường về tín hiệu lạm phát. Thông thường thị trường dùng mức lợi tức ( hơn là giá) để xác định mức độ trái phiếu. Giá trái phiếu có tỷ lệ nghịch chiều với tỷ lệ lãi suất.


Không có mối quan hệ rõ ràng giữa trái phiếu dài hạn và đồng USD tuy nhiên có thể sử dụng ý tưởng sau: một sự sụt giảm trong giá trị của trái phiếu ( do lợi tức tăng) thông thường do tác động của lạm phát tăng có thể gây áp lực lên USD.


- Lợi tức 10 năm trái phiếu: thị trường trái phiếu ngoại hối thường đánh giá sự khác biệt giữa lợi tức trái phiếu kỳ hạn 10 năm với các loại trái phiếu cùng kỳ hạn của các nước khác như Đức ( German 10 year bund), Nhật (10 year JGB), Anh (10 year gilt), sự chênh lệnh có thể tác động đến biến động tỷ giá, thường thì một sự gia tăng của lợi tức 10 năm của trái phiếu Mỹ làm cho đồng USD tăng giá.


- 3 month Eurodollar Deposits: đây là mức lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD tại các ngân hàng ngoài biên giới nước Mỹ.


Thông thường được sử dụng như một tiêu chuẩn trong việc xác định sự chênh lệch lãi suất từ đó có thể dự báo biến động tỷ giá. Ví dụ như trường hợp tỷ giá USDJPY, nếu như lãi suất chênh lệch giữa eursdollar và euryen càng lớn thì khả năng tỷ giá USDJPY bị tác động theo xu hướng tăng lên.


d) Các nhà chính trị hay các lãnh đạo kinh tế


Các thành viên chính phủ hay những người đứng đầu các ngân hàng trung ương, chính những người này có thể gây ảnh hưởng tới giá trị của một loại tiền tệ nào đó qua những gì họ noí, những gì họ làm. Các chức vụ quan trọng như: tổng thống, thủ tướng, thống đốc hay chủ tịch các ngân hàng… luôn có sự thay đổi theo nhiệm kỳ hay có lý do khác. Nhưng chúng luôn được quan tâm chặt chẽ từ các nhà đầu tư, dù ai ngồi vào các vị trí đó thì những quyết sách của họ đều rất quan trọng và đều có những thay đổi, những tác động nhất định tới thị trường ngoại hối.


Ở NHTW, đối với Mỹ là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) thì khi tỷ giá biến động theo một chiều hướng bất lợi tác động xấu tới nền kinh tế, NHTW có thể can thiệp vào nhằm ổn định tỷ giá và đưa tỷ giá trở về tầm kiểm soát theo hướng có lợi cho chính sách tiền tệ. Việc can thiệp này trong những năm gần đây thường thực hiện bằng hai cách: can thiệp miệng ( verbal intervention) hoặc can thiệp trực tiếp vào thị trường.


e) Những nhân tố chính trị ( ví dụ điển hình)


Những nhân tố chính trị đôi khi có thể tác động và gây ra ảnh hưởng lớn đến biến động tỷ giá. Nó làm tỷ giá biến động khá nhanh và mạnh tùy theo từng trường hợp có thể kéo dài hay chấm dứt nhanh chóng.


- Việc Anh gia nhập EU.

- Việc các nước Châu Âu không ký hiệp ước Châu Âu.

- Việc bầu cử tổng thống Mỹ.

- Việc ông Sarkozy thắng cử tổng thống Pháp.

- Căng thẳng Trung Đông, Bắc Triều Tiên…

- Vấn đề định giá lại CNY.


Ngoài những yếu tố cơ bản trên thì những nguyên nhân sau làm biến động tỷ giá như:


+ Sự gia tăng đáng kể các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội sinh lới khi tỷ giá biến động. đối với các đối tượng này thì tỷ giá biến động theo hướng nào là không quan trọng cái chính họ cần là thị trường phải biến động.


+ Các luồng vốn di chuyển nhằm thanh toán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia.Các nhà đi vay cũng có xu hướng tìm kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau nhằm giảm chi phí vay, các quỹ đầu tư cũng di chuyển nguồn vốn vào các đồng tiền có lợi nhuận cao nhất. Cộng thêm các biến động về lãi suất càng làm các quá trình trên diễn ra mạnh mẽ.


Các nhà đầu cơ trên thị trường bao gồm:


1.Nhà đầu cơ hay leveraged investor (Hedge fund).


2.Định chề đầu tư (pension fund, thường thông qua các công ty quản lý tài sản, investmen bank)


3.Các công ty


4.Các loại khác (bao gồm cả các NHTW)

+ Tỷ giá chéo: tỷ giá USD và một đồng tiền khác đôi khi bị ảnh hưởng bởi các cặp tỷ giá khác. Ví dụ như một sự gia tăng nhanh chóng của đồng JPY so với EUR (EURJPY) tạo nên một sự mất giá của EUR, bao gồm luôn cả sự sụt giảm EURUSD.


+ Tác động của nhân tố mang tính chu kỳ: Đây là các hoạt động ngoại có tính chất lặp lại hàng năm trong những thời điểm nhất định, có thể gây ra những biến động tỷ giá mà ta có thể định trước, tuy nhiên quá trình này không phải lúc nào cũng xảy ra giống nhau mà có thể có sự điều chỉnh biến động khác đi.


+ Tác động của những nhân tố khác: Những nhân tố khác, ít xảy ra thường xuyên cũng có tác động lớn tới biến động tỷ giá như các kỳ họp của G7, IMF, hội nghị kinh tế các nước, các khu vực … các thông tin mua bán, sát nhập các công ty có giá trị trên hàng tỷ USD. Dưới đây là Bảng phụ lục về các thông số cơ bản về kinh tế của Mỹ, để các bạn mới vào trade Vàng nắm rõ. ( Phần này Kim Phát Tài tham khảo và trích từ 1 số nguồn khác nhau). Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đồng tiền của một quốc gia, sự tăng hay giảm tỉ giá đồng tiền phụ thuộc vào các chỉ số kinh tế. Dưới đây là những thông tin kinh tế đáng chú ý để đánh giá và dự đoán tỉ giá.



VIỆC LÀM

Các báo cáo về tình trạng thất nghiệp:

Được công bố hàng tuần, chí số này cho biết có bao nhiêu người đang xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tiên. Số lượng người càng ít cho dấu hiệu nền kinh tế đang có dấu hiệu tốt, bởi vì những người thất nghiệp thì thường có xu hướng chi tiêu ít hơn, điều này có tác động xấu đến nền kinh tế của quốc gia.

Bảng lương phi nông nghiệp:

Được công bố hàng tháng cho biết số lượng các công việc mới được tạo ra (ngoài lĩnh vực nông nghiệp). Số lượng công việc càng nhiều thì đồng tiền của quốc gia càng mạnh, bởi vì càng nhiều người có việc làm thì họ kiếm được nhiều tiền hơn và họ sẽ chi tiêu nhiều hơn.

TIÊU DÙNG:

Chỉ số tiêu dùng cá nhân:
Cho thấy mức độ lạm phát mà mọi người phải gánh chịu, nó phản ảnh sự thay đổi trong giá cả của các mặt hàng tiêu dùng và các dịch vụ (không bao gồm thực phẩm và năng lượng). Những biến động lớn về giá cả sẽ có tác động xấu lên nền kinh tế bởi vì nó thể hiện sự không ổn định và sự không ổn định này sẽ khiến cho người dân chi tiêu ít hơn.

Doanh số bán lẻ:

Được công bố 1 lần mỗi tháng, nó đo lường giá trị của doanh số bán lẻ. Sự gia tăng trong doanh số bán lẻ cũng đồng nghĩa là nền kinh tế quốc gia đang phát triển mạnh hơn, bởi vì nó cho thấy người dân đang chi tiêu nhiều hơn.

Tổng sản phẩm quốc nội GDP:

Được tổng kết hàng năm, thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh tế của quốc gia sản xuất ra. Sự tăng lên của GDP cho thấy nền kinh tế của quốc gia đang phát triển mạnh hơn. Nó khuyến khích người dân đầu tư nhiều hơn vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu trong nước đồng thời cũng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Cán cân thương mại:

Thể hiện sự chênh lệch về giá trị của các hàng hoá dịch vụ xuất khẩu và nhập khẩu. Sự thặng dư trong cán cân thương mại có nghĩa là giá trị của các hàng hoá dịch vụ được xuất khẩu đang nhiều hơn nhập khẩu. Sự tăng lên trong cán cân thương mại cho thấy đồng tiền của quốc gia đang mạnh dần lên bởi vì khi nhu cầu xuất khẩu nhiều hơn thì số lượng công ăn việc làm sẽ tăng lên và mức độ sản xuất gia tăng ở các nước xuất khẩu. Điều này cũng sẽ khiến cho các nhà nhập khẩu nước ngoài sẽ phải đổi đồng tiền của họ sang đồng tiền của nước xuất khẩu để mua hàng.

Chỉ số giá tiêu dùng CPI:

Chỉ số CPI đo lường sự gia tăng của giá cả trong một rổ hàng hoá và dịch vụ (như thực phẩm, vận tải, nhà ở, v.v…). Chỉ số CPI này tăng lên nghĩa là giá cả của rổ hàng hoá dịch vụ đó đã gia tăng và chúng ta phải tốn nhiều tiền hơn để mua một rổ hàng hoá dịch vụ tương tự. Sự tăng lên của chỉ số CPI sẽ có tác động tích cực lên nền kinh tế (và đương nhiên là đồng tiền của quốc gia) bởi vì nó cho thấy người ta có đủ tiền để mua hàng hoá và dịch vụ mặc dù giá của chúng có gia tăng.

BẤT ĐỘNG SẢN:


Doanh số nhà mới:
Các số liệu về doanh số bán nhà mới là một chỉ số rất quan trọng cho thấy xu hướng chung của nền kinh tế. Sự tăng lên trong doanh số bán nhà mới cho thấy ngành xây dựng đang phát triển rất tốt và người tiêu dùng có đủ tiền để mua những tài sản có giá trị lớn. Những người mua nhà này sẽ mua thêm nhiều hàng hoá khác, cùng lúc đó thì các công ty xây dựng cũng cần phải thuê công nhân và mua vật liệu, vì vậy nó tạo nên một tác động, một làn sóng tích cực cho nền kinh tế và thúc đẩy sự tăng giá của đồng tiền.

Doanh số nhà chờ bán:

Đo lường hoạt động của doanh số bán nhà hiện tại. Nó bao gồm nhà của các gia đình riêng lẻ, chung cư. Nhu cầu mua nhà càng tăng chứng tỏ nền kinh tế đang phát triển tốt bởi vì người dân cảm thấy rất thoải mái và sẵn sàn đầu tư vào nhà ở. Ngoài ra, việc đầu tư này cũng thường kéo theo các hoạt động mua hàng khác như các thiết bị điện, tủ bàn ghế … sẽ mang lại thu nhập cho những nhà kinh doanh bất động sản, tất cả những điều này đều rất tốt cho nền kinh tế.

Chỉ số nhà xây mới:

Cho biết số lượng các cao ốc đang được xây dựng. Con số này càng cao thì giá trị của đồng tiền của quốc gia cũng cao bởi vì nó cho thấy ngành xây dựng đang phát triển tốt và nhiều người đang đầu tư vào lĩnh vực này.

SẢN XUÂT:



Chỉ số sản xuất ISM:

Đo lường hoạt động thu mua trong khu vực sản xuất. Sự tăng lên của ISM cho thấy đồng tiền của quốc gia đang mạnh dần lên. Các chỉ số thể hiện hoạt động thu mua này là những chỉ số tốt bởi vì chúng đánh giá tình hình hoạt động của một công ty, thường đi đôi với những biểu hiện toàn diện của nền kinh tế.

Sản xuất công nghiệp:

Đo lường giá trị của sản lượng đầu ra được sản xuất bởi các nhà máy, hầm mỏ. Sự tăng lên trong sản xuất công nghiệp cho thấy đồng tiền của quốc gia đang mạnh dần lên bởi vì giá trị của nó càng cao cho thấy số lượng lớn các sản phẩm đang được sản xuất và bán ra, vì thế người dân có thu nhập và sẵn sàng chi tiêu.

Chỉ số giá của các nhà sản xuất PPI:

Kiểm tra sự khác biệt trong giá bán hàng hoá và dịch vụ của các nhà sản xuất. Bởi vì các nhà sản xuất thường có xu hướng tăng giá bán lẻ khi các chi phí sản xuất gia tăng, PPI có thể được xem là một chỉ số biểu hiện sự lạm phát. PPI tăng lên sẽ khiến cho Ngân hàng Trung Ương cũng tăng lãi suất theo. Sự tụt giảm của PPI cho thấy giá cả đang giảm xuống và suy thoái kinh tế đang bắt đầu xuất hiện.

Các đơn hàng cho những hàng hoá sử dụng lâu bền:

Đo lường giá trị của các loại hàng hoá có vòng đời lâu hơn 3 năm, mà người tiêu dùng mua - được sản xuất ở thị trường nội địa. Chỉ số này giúp dự đoán xem các nhà sản xuất đang bận rộn đến mức nào bởi vì họ cần phải làm việc tích cực để đáp ứng kịp các đơn hàng. Vì thế, xu hướng tăng lên sẽ có tác động tích cực lên đồng tiền quốc gia.

LÃI SUẤT NGÂN HÀNG:

Công bố của ngân hàng trung ương Anh (BoE):

Uỷ ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương Anh thường tổ chức bỏ phiếu biểu quyết hàng tháng để đưa ra mức lãi suất của quốc gia trong ngắn hạn.

Công bố của Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB):

Ban quản lý của Ngân hàng Trung ương Châu Au thường bỏ phiếu biểu quyết hàng tháng để đưa ra mức lãi suất của cộng đồng này trong ngắn hạn.

Công bố của Cục dự trư Liên bang Mỹ (FED):

Uỷ ban kiểm soát thị trường tự do của Fed thường bỏ phiếu biểu quyết 8 năm một lần.
Kết quả của các cuộc bỏ phiếu của (BoE; ECB hay FED) sẽ được công bố nhanh chóng. Nó thường đi kèm với một vài lời bình luận vắn tắt về tình hình kinh tế và các nhân tố tác động. Mức lãi suất thường được quyết định dựa trên tình hình lạm phát. Mục đích là để giữ cho giá cả ổn định, vì thế khi lạm phát tăng trên mức lãi suất của năm 2% thì các ngân hàng này thường cũng tăng lãi suất để kìm giá xuống. Mức lãi suất cao sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, làm gia tăng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ để lấy nội tệ. Có thể nói rằng xu hướng gia tăng của lãi suất có tác động tích cực lên nền kinh tế của quốc gia.


Biên bản cuộc họp của FOMC

Biên bản cuộc họp của Uỷ ban kiểm soát thị trường tự do sẽ giúp cho các thành viên đưa ra các chính sách và quyết định liên quan tới lãi suất.


KHẢO SÁT KINH TẾ:


Cuộc khảo sát của ZEW:

Sẽ giúp cung cấp các nhận định của các chuyên gia tài chính có đề cập tới xu hướng kinh tế trong thời gian tới cho cộng đồng chung Châu Âu. Sự khác biệt về số lượng nhà đầu tư hàng tháng sẽ giúp dự đoán được sự tăng trưởng của nền kinh tế là tăng hay giảm.

Chỉ số PMI của Chicago (Mỹ):

Thể hiện tình hình chung của môi trường kinh doanh ở Chicago. Tình hình thu mua hàng tháng sẽ trả lời cho cuộc khảo sát có liên quan đến hoạt động của tổ chức họ (nó cao hơn, bằng, hay thấp hơn so với tháng trước) các vấn đề về sản lượng đầu ra, tình hình thu mua, số lượng việc làm, số lượng hàng tồn kho, các đơn hàng và các chỉ số giá cả.

Quỹ ngân khố quốc tế TIC:

Theo dõi dòng chảy của dòng tiền của các quỹ ra và vào lãnh thổ nước Mỹ (trên thị trường cổ phiếu, trái phiếu). Con số này sẽ được thể hiện theo mức triệu đôla, thể hiện sự chênh lệch giữa chi tiêu của nước Mỹ vào cổ phiếu của các công ty nước ngoài và cổ phiếu của các công ty Mỹ. Đây là chỉ số quan trọng của nền kinh tế Mỹ và giúp họ có cái nhìn thấu đáo về nhu cầu của nước ngoài vào các lĩnh vực đầu tư và đồng đôla Mỹ. Ví dụ, nếu Mỹ mua 10 tỷ đôla cổ phiếu của các công ty nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài mua 30 tỷ đôla chứng khoán của các công ty Mỹ để đầu tư dài hạn, thì con số chênh lệch sẽ là 20 tỷ đôla.

Niềm tin tiêu dùng:

Đo lường thái độ của người tiêu dùng đối với các tình hình kinh tế, họ đánh giá như thế nào vào các triển vọng kinh tế trong tương lai. Con số cao sẽ thể hiện sự lạc quan của người tiêu dùng; có thể nói là người tiêu dùng đang rất lạc quan về các triển vọng phát triển kinh tế. Và kết quả là họ sẽ chi tiêu nhiều hơn, điều này sẽ kích thích lại nền kinh tế.

Mức độ nhạy cảm của người tiêu dùng:

Đo lường thái độ của người tiêu dùng cả về tình hình hiện tại và các kỳ vọng vào tương lai. Nó xuất phát từ kết quả của cuộc khảo sát trên 500 người hàng tháng của trường đại học Michigan. Mức độ nhạy cảm càng cao sẽ cho thấy mức chi tiêu dùng sẽ gia tăng, nó chiếm tới 2/3 nền kinh tế.

CHÚ Ý:

Các thông tin kinh tế được công bố sẽ có ảnh hưởng tới giá thị trường khi có sự chênh lệch giữa số liệu kỳ vọng và số liệu thực tế được công bố. Có thể xem lịch thông tin ở địa chỉ @ http://www.forexfactory.com/calendar.php
Thị trường có những biến động đều đặn thì sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi các tin tức được công bố. Ngược lại, khi thị trường đi ngang, không có nhiều biến động thì khi tin được công bố sẽ có thể có nhiều biến động lớn.
Hãy lưu ý rằng thông tin kinh tế được công bố vẫn rất tiềm ẩn sự rủi ro.
Read more…

Quỹ FMTO

https://ftmo.com/?affiliates=2977